KỲ 1: NSND SOẠN GIẢ VIỄN CHÂU: Hãy “gìn vàng giữ ngọc” cho ĐCTTÔng
được giới nghệ nhân tài tử đờn và tài tử ca xem là ngôi sao Bắc Đẩu bởi
những cống hiến vượt bậc của một nghệ nhân đến với ĐCTT bằng ngôn đàn
tranh điêu luyện. “Không có ĐCTT thì tôi không biết cách nào để đến với
nghề. Khi nhỏ nghe các chú, các bác trong xóm đờn thì mày mò học theo,
rồi những buổi chiều sau ngày đồng áng, manh chiếu trước sân hình thành
nên niềm say mê của tôi qua những bài bản ĐCTT. Đón nhận Huân chương lao
động hạng 3 của Nhà nước trao tặng, tôi xúc động vô cùng. Đó là món quà
ý nghĩa cho một đời nặng nghiệp cầm ca mà khởi xướng là từ không gian
ĐCTT ở Trà Vinh, quê hương tôi”- NSND soạn giả Viễn Châu tâm sự.
Công
lao của ông đối với sân khấu cải lương đã rõ, điều mà giới mộ điệu nhắc
đến cụm từ “Vua vọng cổ” đều nhớ ông có 2000 bài vọng cổ, hơn 70 kịch
bản cải lương lừng danh, nhưng nói về những đóng góp của ông cho nền
nghệ thuật ĐCTT Nam Bộ, hiếm ai biết những thầm lặng của ông trong công
việc nghiên cứu cách đàn tranh, đàn ghita phím lõm và sáng tác bài bản
mới cho kho tàng ĐCTT Nam Bộ phát triển hơn 100 năm.
THÍNH TAI, MỘT LỢI THẾKhông
thích nói dông dài về những đóng góp của mình, gặp ông vẫn gương mặt
hiền từ, đôi mắt giờ đã mờ, không còn tinh thông để cầm viết sáng tác,
“tuy nhiên Tổ nghiệp thương cho đôi tai rất thính. Đó là lợi thế của
người chơi ĐCTT”- rồi ông cười, trách ngay cuộc thi Chuông vàng vọng cổ
vừa qua, HTV bố trí phần giám khảo mà thiếu một “thầy đờn”, nên thí sinh
không có lỗi khi ca trật nhịp, đâm hơi, mà do đàn cổ nhạc giữ chính
dây. “Giữ cái chuẩn mực cho ĐCTT chính là giữ những cốt cách nhỏ nhất
trong muôn vàn những mắc xích tạo nên không gian ĐCTT. Gọi bản vọng cổ
là vua của ĐCTT, vương đến của sàn diễn sân khấu cải lương, thì chuẩn
mực từ thầy đờn rất quan trọng. Lỗ tai nghe để điều chỉnh dây đờn. Tại
sao ĐCTT Nam Bộ khác âm nhạc thế giới vì có thêm phần rao đờn. Rao để
lấy đúng dây. Không xem trọng điều này thì NSND cũng ca đâm hơi chứ nói
chi đến thí si”- ông phân tích rất chân thành.
Từ ý thức cấu trúc
cho mình những chuẩn mực, từ thời còn trẻ ông đã tự véo tay mình mỗi
khi để ngón đờn bị chênh. Ông tham dự hàng ngàn buổi thuyết trinh về
ĐCTT, tham gia đệm đờn với biết bao danh cầm và cả với những hậu bối
đang học nghề. “Thì việc đầu tiên là tôi nhắm nghiền đôi mắt lại, để lỗ
tai làm việc. Thính giác buộc bộ não suy luận, thì cho đúng mạch nói để
hình thành cách đệm đờn. Gọi ĐCTT là thú chơi tao nhã nhưng hết sức
thính phòng. Đó là nét độc đáo mà thế giới công nhận là di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại”- ông chậm rãi nói, trong khi không quên nhấn
phím cây đờn tranh đã theo ông trên 40 năm rong ruổi “thính tai, với tôi
là một lợi thế”
CẦN LẮM SỰ TIẾP NỐIThời
còn trẻ bắt đầu sáng tác, ông được soạn giả NSND Năm Châu và tác giả
Trần Hữu Trang “khích tướng” để ông lao vào nghiên cứu thêm về nghệ
thuật ĐCTT. “Âm nhạc cải lương khác với ĐCTT. Tính ngẫu hứng vẫn có
nhưng mang những niêm luật bất di, bất dịch”- rồi ông miên man kể. Khi
theo đoàn hát qua mỗi tỉnh thành phía nam, nơi nào có ĐCTT thì ông tìm
đến gặp những nghệ nhân để tìm hiểu. Bộ môn này xuất phát từ nhân dân
thì trong nhân dân vô số những sáng tác mới vẫn được thai nghén, sản
sinh và lưu truyền. Nhờ đó ông mạnh dạn tích lũy, phát huy cái hay, gạn
lọc những điều chưa hợp lý, để đưa vào sáng tác kịch bản cải lương. Soạn
giả Kiên Giang nhận xét: “Cách làm giàu vốn liếng của anh Bảy Viễn Châu
nhờ thế mà gia tài kịch bản đồ sộ thêm. Anh đưa vào nhiều bài bản mời,
để từ 20 bài bản tổ, anh viết thêm phần nhạc được phát triển từ ngũ
cung, mà nổi tiếng nhất là bài “ Võ Đông Sơn- Bạch Thu Hà”, do nghệ sĩ
Minh Cảnh ca: “Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi!, đường dài mịt mù em
không tới nơi…”.
Còn
với NSND Lệ Thủy, bà xúc động: “Đón nhận Huân chương lao động hạng 3,
phần thường cao quý mà Đảng, nhà nước trao tặng cho soạn giả NSND Viễn
Châu rất kịp thời. Chúng tôi rất sợ khi bác bảy nằm xuống rồi mới truy
phong, thì đau lòng biết mấy. Với DCTT Nam Bộ và sân khấu cải lương ở
các tỉnh thành phía nam, Bác Bảy còn nghiên cứu nhiều để ứng dụng bài
bản mới do bác bảy viết đưa vào sàn diễn cải lương. Bác bảy là một nhịp
cầu nối liền anh em nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp đến gần hơn với nghệ
thuật ĐCTT Nam Bộ. Vì trong 2000 bài Vọng cổ, có hàng trăm bài bản ĐCTT
được vận dụng, và nhờ băng dĩa làn sóng radio đã đưa đến người nghe,
rồi phổ biến khắp cả nước, lan tỏa ra tận hải ngoại. Nên chỉ cần nhắc
đến tên bài hát là nhớ ngay bài bản, đó là sự kết nối rất giá trị”.
Và
khi đã có sụ kết nối giữa thế hệ nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp với
nghệ nhân tài tử đờn ca tài tử ca, hai bộ môn nghệ thuật này đã song
hành hỗ trợ cho nhau, cùng nhau nâng cao giá trị nghệ thuật. GSTS Trần
Văn Khê phân tích: “Anh bảy Viễn Châu không bao giờ đếm những sáng tác
của mình. Vì anh không muốn phô trương số lượng. Điều gì tồn tại là một
sự kết nối, khi nó hợp vơi tâm thức người nghe, gieo cảm xúc cho người
cảm thụ, thì tức nó đi vào trái tim và kết nối. Giữ được không gian ĐCTT
chính là cần những con người như anh Bảy Viễn Châu, kết nối một cách có
trách nhiệm với thế hệ trẻ đi theo con đường sáng tác, cũng như với
những nghệ nhân ĐCTT ngẫu hứng đến với niềm đam mê, hình thành nên không
gian cần bảo tồn của nghệ thuật ĐCTT Nam Bộ”.
Nói những lời trăn
trối, soạn giả NSND Viễn Châu khọc: “Muốn kết nối thật nhiều những thế
hệ sống chết với ĐCTT, nhưng sức tôi đã cạn dần, chỉ còn trái tim yêu
nồng nàn dành cho bộ môn này. Do vậy tôi mong thế hệ trẻ sẽ giúp tôi
tiếp tục kết nối để đời sống cộng đồng trong những vùng dân cư khác nhau
về ngôn ngữ, nhưng vẫn âm vang tiếng đờn của bộ môn Nghệ thuật ĐCTT Nam
Bộ”.
Thanh Hiệp
*GIÁO SƯ NGUYỄN VĨNH BẢO:
“Để tiếng đàn tranh mãi ngân xa”
Ông
được xem là bậc thầy trong việc nghiên cứu và phát triển nghệ thuật
ĐCTT Nam Bộ trên thế giới. Công lao của ông rất lớn khi đã cùng GSTS
Trần Văn Khê thu âm đĩa nhạc ĐCTT Nam Bộ đầu tiên theo lời mời của tổ
chức UNESSCO tại Pháp, để sau này đĩa nhạc này là một trong những tư
liệu có giá trị để Tổ chức văn hóa thế giới công nhận ĐCTT Nam Bộ là di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
Kỳ 2: 97 TUỔI VẪN CÒN MÊ DẠY NHẠCGS
Nguyễn Vĩnh Bảo đón nhận bằng khen của Thủ tướng trong lúc ông cho
rằng: “cơ thể già yếu nhưng vẫn đam mê dạy nhạc qua internet. Qua hướng
dẫn bằng thông tin điện tử với nhiều sinh viên Việt Nam tại Mỹ, Pháp;
tôi không ngờ tiếng đàn tranh của tôi vang xa đến những thính đường đại
học như: Sorbonne, Washington, Kent…”. Rồi ông miên man kể về các học
trò phương xa của mình. Người thì mê học đờn tranh chỉ vì nghe tiếng réo
rắc của âm thanh để nhớ về quê nhà, người thì thích học có dịp mắc áo
dài, ngồi đàn cho trên sân khấu cho hàng trăm sinh viên phương tây trầm
trồ. Và như ông nói, mỗi học trò qua internet học đàn tranh với nhiều lý
do khác nhau, nhưng tựu trung đều muốn góp phần nâng niu và bảo tồn
nghệ thuật ĐCTT Nam Bộ. Ông cười ví von: “Với nghệ sĩ người ta thường
gọi tôi một cách thân quen là Vĩnh Bảo, khiến nhiều người lầm tưởng tôi
thuộc giới hoàng tộc Huế. Thực ra, quê quán của tôi là Cao Lãnh (Đồng
Tháp). Tiếng đàn của tôi nhờ trực diện với sông nước nên cứ mênh mang,
huyền diệu như cơn sóng muôn trùng. Yêu đất, yêu ĐCTT nên tôi càng hiểu
rõ hơn giá trị của sinh thái đối với người mê âm nhạc tài tử”.
97
tuổi vẫn còn lên mạng dạy nhạc mỗi ngày từ 2 đến 4 giờ, GS Nguyễn Vĩnh
Bảo cho rằng nhờ ông thích những trang thơ tiếng Pháp, những bài viết
nghiên cứu ĐCTT bằng tiếng Anh, “nên đầu óc tôi vẫn còn sáng. Nói một
cách nào đó, tôi luôn đặt mình trong tâm trạng nâng cao tầm tri thức về
âm nhạc, để qua cuộc đời với những thăng trầm, buồn vui, tôi áp dụng vào
kỹ thuật chơi đàn, rồi đóng đàn tranh. Sau đó hệ thống hóa lý thuyết và
ứng dụng âm nhạc để các nghiên cứu sinh tiếp thu”. GS đã kể về công
việc của một nhà giáo 97 tuổi không cho phép mình ngơi nghỉ.
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỮNG VÀNGNhà
giáo ưu tú Phạm Thúy Hoan xúc động kể: “Những đóng góp to lớn của GS
Nguyễn Vĩnh Bảo chính là thể hiện nét độc đáo của phương pháp truyền
khẩu tiềm tàng trong một nghệ nhân có một quá trình nghiên cứu nghệ
thuật ĐCTT lâu dài. Tôi học ở thầy rất nhiều sự kết hợp tinh tế giữa
nghiên cứu, giảng dạy và tìm sự kết nối tương đồng để sinh vien dễ
hiểu, dễ tiếp thu. Với cách đó người đam mê ĐCTT Nam Bộ đã có nhiều
phương pháp học đờn tranh và nhiều loại nhạc cụ khác một cách dễ dàng,
mà giá trị của việc hình thành công trình đó, chính là từ trái tim, khối
óc của GS Nguyễn Vĩnh Bảo”.
Trong lĩnh vực biểu diễn, GS nguyễn
Vĩnh Bảo thế hệ kế thừa các nhạc sư: Cao Văn Lầu (tức sáu Lầu, Bạc
Liêu), Trần Văn Kiên (tức Mười Kiên, Cần Thơ), và cùng thời với thế hệ
các nhạc sĩ: Chính Kỳ, Nguyễn Văn Thịnh & tức Giáo Thịnh), Hai Biểu,
chính Trích (cha của NS Tú Trinh), Hai Khuê, Bảy Hàm, Mười Tiếng, Năm
Cơ, Văn Vĩ, sáu Tửng… Ông sớm tiếp cận với văn hóa phương Tây, trogn lúc
dạy tiếng Pháp ở trường Ngô Quang Vinh (khoảng năm 1947) do đó ông chơi
rất thạo: piano, violon, man-doline và guitare.
GSTS Trần Văn
Khê nhận xét trong lễ đón nhận bằng khen của Thủ tướng trao tặng GS
Nguễn Vĩnh Bảo: “Tôi chưa nghe ngón đàn tranh nào hay hơn ngón đàn của
GS Nguyễn Vĩnh Bảo. ngón đờn đó vừa bay bướm, vừa sâu sắc. không chỉ
dừng lại tiếng đàn tranh, anh còn đờn tuyệt diệu nhiều loại nhạc cụ như:
kìm, gáo, tỳ bà, độc huyền (bầu)… anh bước vào làng âm nhạc chuyên
nghiệp rất sớm, đó là năm 1938, một đĩa nhạc hát giá trị còn lưu trữ
lại, đó là tiếng đờn gáo của anh hòa quyện với tiếng đàn đàn tranh của
Năm Nghĩa (cha củ NSUT Bảo Quốc), tiếng đàn kìm cảu Ba Cần, vào tiếng ca
cảu cô Ba Thiệt (chị của cô Năm Cần Thơ). Bộ đĩa Beka đó rất giá trị mà
tôi đã được nghe.
Với NSND Ngọc Giàu, bà tâm sự: “Lắng nghe từng
tiếng rung, tiếng nhấn điêu luyện, tha thiết trên tiến đàn kìm
(nguyệt), trên dây đàn gáo, đàn tranh của GS Nguyễn Vĩnh Bảo, thế hệ
nghệ sĩ sân khấu chúng tôi cảm nhận tâm hồn mình sảng khoái, tươi trẻ,
bởi không có sự sai sót nào trong cao độ âm thanh tinh tế ma ông đã gieo
vào lòng người nghe. Ông đã sống với ĐCTT từ hơn tám mươi năm theo từng
nốt thăng trầm đất nước, của đời người.
Nhắc đến sự đóng góp đồ
sộ của ông với nghệ thuật ĐCTT nam Bộ, Thạc sĩ Huỳnh Khải nói: “Ông còn
là nhà sáng tạo âm thanh và nhạc cụ. Tôi được biết, ông đã sáng tạo ây
tỳ (quãng tám), và dây “xề-li” (quãng tư) hồi năm 1935 và minh họa một
cách hết sức nhuần nhuyễn kỹ thuật diễn tấu hai loại dây lạ lùng, thú vị
này. Mà câu chuyên sáng tạo hai loại dây này khởi nguồn từ bối cảnh
thiên nhiên. Lúc đó ông theo đoàn hát sang Campuchia, trên đường đi thăm
một ngôi chùa trong môt đêm trăng ông nghe tiếng ểnh ương kêu thảm não,
khiến ông nghĩ ra một cách tạo âm cho cây đàn gáo qua cách tăng dây.
Sáng tạo ấy quả linh bắt gặp tư duy thiên nhiên của Oliver Messian, nhà
soạn nhạc Pháp, khi ông này ghi âm, nghiên cứu tiếng chim nhiều nơi trên
thế giới cho một số các tác phẩm đương đại của ông. Và còn nữa, việc
ông mạnh dạn cải tiến đàn tranh với 17, 19, và 21 dây. Trước đó đàn
tranh chỉ có 16 dây. Ông cũng là ngươi đầu tiên thử nghiệm thàh công khi
đóng hộp đàn trang bằng gỗ kiri của Nhật Bản. đây là một loại gỗ có vân
sơ tuyệt đẹp, chất xốp vừa đủ tạo nên tiếng âm vang trong sáng cho đàn
tranh VN”.
Âm thanh của tiếng đàn tranh mà GS Nguyễn Vĩnh Bảo đã
để lại cho cuộc đời đã đáp ứng tnh1 thẩm mỹ cao, hình dáng cây đàn tranh
VN tở nên đẹp hơn, thực tế hơn cho việc diễn tấu. GSTS Nguyễn Thuyết
Phong khẳng định: “Tiếng đàn tranh của GS Nguyễn Vĩnh Bảo trên cây đàn
được đóng bằng gỗ kiri, loại gỗ chuyên để d9ogn1 đàn koto của Nhật trong
nhiều đĩa nhạc, đã theo tôi trong suốt thời gian trắng nghiệm khoa học
âm thanh (acoustics) tại đại học Washington (1987-89). Hai nhà khoa học
Edward Burns và Douglas Keefe ở đây đánh giá độ vang loại đàn tranh
Nguyễn Vĩnh Bảo là dài nhất trong các loại đàn tranh Châu Á. Ngoài âm
sắc đẹp, quý phái, kết quả thử nghiệm đó quả đáng ghi nhận hay nhất
trong lịch sử chế tác đàn tranh Việt Nam. Lại nữa, hiện nay cả nước
thường sử dụng đàn tranh 17 dây, bắt nguồn từ sáng tạo của nghệ nhân
Nguyễn Vĩnh Bảo. cải tiến nhạc cụ của ông đã đạt đến trình độ định chuẩn
dân tộc cao, không lai căng, đi sai lệch truyền thống như một số các
trường hợp gần đây. Đó la điểm son, đồng thời là minh chứng hùng hồn
nhất về đóng góp của ông cho nên văn hóa dân tộc”.
Thanh Hiệp
Ý kiến bạn đọc