Gia đình Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Lưu Minh Vũ và Lưu Quỳnh Thơ -Ảnh: tư liệu gia đình |
Như nhà văn Trần Chiến với nỗi ngậm ngùi tìm kiếm “mùi cha” từ nhà sử học Trần Huy Liệu. Như nghệ sĩ Quế Trân với bao xúc cảm về một tình cha sâu nặng của nghệ sĩ Thanh Tòng...
Những câu chuyện lần đầu được kể, có khi tưởng đã vùi sâu chôn chặt mấy mươi năm, vẫn tươi rói những nhớ thương, đau xót. Cha và con - một cuốn sách đa cảm như thế, với rất nhiều câu chuyện của con và cha (của nhiều tên tuổi khác như Phan Thị Vàng Anh, Hà Anh Tuấn, Nguyễn Quang Thiều... ) sẽ được NXB Trẻ ra mắt trong tháng 6 - tháng có một ngày của cha. TTCT xin được giới thiệu một số bài viết trong đó.
Ai cũng có người cha để nhớ, bố mất khi tôi 18 tuổi. Trước đó, do cái tính của con trai, bố ngay bên cạnh, việc gì mà phải nhớ.
Bất ngờ bố, má, em mất cùng một ngày, đau đớn, tôi như chìm vào cơn mơ bồng bềnh của những kỷ niệm, rồi đi học xa nhà, nhớ, như nghĩ bố vẫn đang chờ tôi ở nơi ấy. Tâm tính thay đổi hoàn toàn, bao việc không làm được, bao ước mơ, dự định không làm được, giá như bố chỉ cho con...
Hồi nhỏ sống với bố thì chưa đủ nhớ, đến khi có thể nhớ được thì hoàn cảnh thay đổi. Tôi không có một mái ấm đủ đầy cả cha cả mẹ. Kỷ niệm về bố cứ đan xen, chập chờn, ám ảnh, có lẽ tôi phải viết theo những câu chuyện, sắp xếp cùng nỗi đau.
Bố trồng cây
Khi tôi biết nhớ, bố thích trồng cây, nhưng nhà chật, chỗ trồng cây càng hiếm. Nhà tôi ở tầng 3, cuối hành lang, hướng tây, đứng đó nhìn sang phố Trần Nhân Tông, thấy những mái nhà ngói đỏ nhấp nhô kéo dài, những chỏm cây xanh cao vươn lên trên mái nhà hai tầng, phải chăng từ đó bố đã viết: “Trên mái nhà cao vút rừng cây / Trên rừng cây những đám mây xô giạt”.
Bố mua hay xin về mấy cây hoa lan, trồng vào cặp lồng hỏng, mắc lên đinh tường ở trên cao. Bề rộng của khoảng không ấy khoảng 80cm. Bố trồng lan tai trâu, lan nhảy dù, mai chiếu thủy...
Tôi rất nhớ tên của các loài lan đó vì đã hỏi bố. Nhưng trồng một thời gian thì mấy loại cây dễ sống ấy cũng không sống được, vì hướng tây, lúc nắng lại nắng nhiều quá, lúc không có nắng, vì ở cuối dãy chỉ có một mặt hứng nắng thôi.
Để có chút màu xanh, bố trồng hành. Những củ hành khô để lâu, mọc mầm, bố dúi vào chậu, tưới nước. Vào một sáng dậy, nhìn thấy mầm xanh chui ra khỏi vỏ vươn lên, bố kêu lên: “Ối giời ơi, hành!”, em Mí và tôi thấy thế cũng hét: “Ối giời ơi, hành!”, má tôi cũng phấn khích “Ối giời ơi, hành!”, bác Đoàn Dũng (diễn viên, NSND) thấy mấy bố con la hét (nhà bác ở bên phố Trần Nhân Tông, nhưng cửa sổ hai nhà lại rất gần nhau kiểu “gần nhà xa ngõ”) cũng vui vẻ hét vọng theo: “Ối giời ơi, hành!”.
Cả nhà cười vui, tôi phục bố lắm, không hiểu bố trồng thế nào mà hành lên xanh mướt. Má bảo: “Nhà này trồng hành không phải để ăn mà để... kêu”.
Bố và xe máy
Khoảng đầu năm 1980, bố mua được cái xe Mobilet “cá xanh”, hồi ấy còn có thêm tên là “cá ươn” vì loại xe này đã cũ, chạy xăng pha dầu, có pedan như xe đạp, mỗi lần đạp để nổ cực khó. Tôi sung sướng và tự hào với bọn trẻ con trong khu tập thể vì nhà mình có xe máy (xe máy hồi đó chắc giá trị hơn ôtô bây giờ ấy).
Bố má chỉ có chung một chiếc xe đạp Peugeot cũ, có biển số, xe của bác Đông Mai để lại năm 1976, vì bác chuyển vào Nam công tác (chuyện mất xe này cũng lạ lắm, khi nào tôi sẽ kể). Chiếc xe máy của bố đúng là ươn thật, bố trèo lên, đứng hẳn lên, đạp bao nhiêu vòng nó vẫn trơ ra, thi thoảng lại lẹt khẹt vài tiếng.
Hồi ấy ít hàng sửa xe máy, không hiểu bố ngại hay sợ mang tiếng là mới mua xe về đã hỏng, không mang xe đi sửa mà toàn tự sửa. Tôi được bố chở vài lần đi sinh hoạt ở câu lạc bộ thiếu nhi tại phố Lý Thái Tổ, oai lắm.
Nhưng có một chuyện làm bố và má giận nhau mất mấy ngày. Buổi sáng bố hay chở má đi uống cà phê ở phố Mai Hắc Đế, hôm ấy, bố đạp mãi “cá ươn” mới chịu nổ, và nổ rồi là phải chạy ngay để phòng nó tắt lại phải đạp nữa.
Má Quỳnh chưa kịp ngồi lên, bố đã phóng thẳng, má ngồi trượt, ngã ra đường, bố không biết vẫn chạy một mạch về nhà, không thấy má đâu. Má bị đau thì ít, nhưng giận bố nhiều vì rơi vào tình huống ấy, dân ở phố nhìn thấy.
Bố đi xe máy đi họp, gặp bạn đi xe đạp, vẫy chào cười rất tươi: “Vũ đi trước nhé”, nhưng tới cuộc họp lại đến sau, vì xe máy hỏng, lại phải tự chữa, không được, đành dắt bộ đến.
Từ khi có xe máy bố cũng ít bắt tay mọi người, vì tay lúc nào cũng lấm lem dầu mỡ. Sau bố cũng bán được cái xe ấy, người mua thì sung sướng vì mua được rẻ, người bán cũng sướng không kém vì tống được “con cá ươn” đi.
Có cái lốp xe để dành, cất kỹ, bố mang xuống tặng thêm người ấy. Bố má vài hôm sau mới hết lo lắng, vì sợ người ta quay trở lại, đổi ý không mua, trả lại xe, trả lại cái khổ cho mình.
Các cô chú trong nhà đặt cho bố biệt danh là “Vũ xe máy”. Mỗi lần nghe vậy bố cười hiền, nhưng lại lo lắng, lo và thương cho người mua có khổ như mình không.
Sa-pô của bố
Tôi nhớ là mùa đông, bố không đi giày (trước lúc mất, khoảng 1, 2 năm bố mới có đôi giày thể thao, được má giặt, phơi, cất cẩn thận cho mùa đông 1988). Hồi xưa có mốt là dép sa-pô. Dép sa-pô được sản xuất trong miền Nam, rất êm, lại có đế cao, quai bằng da màu nâu đỏ trông đẹp.
Nhưng chỉ đi vài tháng là hỏng, và chỉ đi vào mùa đông, mùa hè đi rất nóng. Mùa hè bố đi guốc mộc. Loại guốc mộc quai bằng cao su đen hay bán ở chợ chỉ để phụ nữ đi thôi.
Không biết bố nhờ ai mua được mấy đôi guốc mộc loại lớn, cao, đế bằng, má Quỳnh tận dụng, tháo quai ở dép sa-pô cũ đóng vào guốc của bố, những cái đinh có mũ sáng trắng, được đóng đều tăm tắp lấp lánh dưới chân, đẹp lắm.
Nhưng rồi quai da cũng hỏng và mủn ra, chỗ đóng đinh ấy cũng hỏng, học cách của mấy người bạn (đạo diễn Doãn Hoàng Giang, họa sĩ Lê Huy Quang...) má Quỳnh lấy xanh-tuy-rông (thắt lưng của lính Mỹ) cắt ra làm quai, vừa bền vừa “hầm hố”.
Lúc đầu đi đau chân vì xanh-tuy-rông cọ vào da, hai chân bố đều có vết tấy đỏ. Guốc hỏng (nếu chạy, hoặc đi mưa dễ bị mủn ra), má lại tháo quai đóng vào đôi guốc khác, “guốc hỏng, quai không hỏng”.
Thời gian sau, bố tìm được cửa hàng bán đôi “sục”, là một loại guốc nhưng phần đầu quai bịt kín. Đi đẹp hơn và trông Tây hơn (hồi ấy Thụy Điển mới có “sục”, nên ai cũng tưởng bố đi đồ ngoại, lại của tư bản), đến khi “sục” hỏng, má lại tháo cái quai ra đóng vào guốc gỗ bình thường.
Những cái đinh có mũ sáng trắng, được đóng đều tăm tắp lấp lánh dưới chân, đẹp lắm. Nhớ bố và thương quá má ơi! Những cái guốc hỏng cũng không dám vứt đi, cất một nơi, để dành đến tết làm củi luộc bánh chưng, cháy khiếp.
Bố vẽ truyện tranh
Có lần để dỗ tôi, anh Tuấn Anh và hai chú Định, Bi, bố đã sáng tác “truyện tranh”, có tên là “Một hào đâu rồi?”. Bố vẽ vào giấy bằng tờ A4 bây giờ chia ô, có đánh số.
Nội dung là: Có một anh thanh niên, trông rất ăn chơi (tôi nghĩ như vậy) vừa đi vừa giơ tờ tiền 1 hào (1 hào hồi ấy có thể ăn được bát phở và đối với trẻ con chúng tôi là số tiền rất lớn).
Bỗng nhiên anh ta không thấy tờ 1 hào đâu, rồi tìm, trên bàn, trong nhà, ra phố, anh hỏi người qua đường, hỏi trời, cởi áo tìm, cởi quần dài tìm, cuối cùng là cởi hết, bố vẽ cả cái đấy của anh thanh niên.
Tranh nào anh ấy cũng nói một câu duy nhất: “Một hào đâu rồi?”. Ở tranh cuối cùng, bọn trẻ con sướng lắm vì được nhìn thấy anh ấy... nuy toàn phần. Má tôi thì mắng: “Bố cứ vẽ lung tung, nhố nhăng cho trẻ con xem”.
Hình như má cất hay bỏ đi. 40 năm qua rồi, tôi nhớ những nét vẽ đơn giản, vui nhộn, hiền hậu. Lũ trẻ con vui sướng lắm, chắc lúc đó bố cũng ngắm chúng tôi để vui theo.
Bố viết truyện
Tôi nhớ năm 1979, tôi mổ ruột thừa bị nhiễm trùng, bố và má thay nhau trông tôi trong bệnh viện Việt Đức, tôi nằm trên giường bệnh, còn bố vẫn ngồi cạnh, hí hoáy viết gì đó, mấy ngày sau, bố dỗ tôi, đọc cho tôi truyện ngắn vừa viết.
Lúc đó tôi bị đau và chỉ muốn nhanh lành bệnh để vui đùa chạy nhảy nên không để ý. Sau này truyện được đăng trên báo Văn Nghệ, “Một đêm của giáo sư Tường” (lúc đầu, bố đặt tên là 245T, chắc lúc in đổi tên nghe cho hấp dẫn), rồi truyện “Bạn già”, những cảnh bố tả sân bệnh viện thì đúng là nơi tôi nằm rồi, vì cả ngày nhìn ra đó qua khung cửa sổ, hàng cây, ngọn gió, những đám mây...
Giáo sư Tường cũng là từ nguyên mẫu của giáo sư Tôn Thất Tùng. Bố tôi chơi rất thân với bác Trịnh Tú làm trong Bệnh viện Việt Đức, con nuôi và là thư ký của giáo sư.
Nghe bố kể, bác Trịnh Tú giữ cả một kho sách của giáo sư, quý giá lắm. Qua bác Tú, bố chơi thân với một chú bác sĩ, tôi không nhớ tên, chú ấy là bác sĩ chuyên khoa, giờ gọi là nam học. Tôi nghe lỏm được, trong phòng làm việc của chú ấy, chính giữa, treo một tranh hay ảnh bộ phận của nam giới to đùng, to nhất nước...
Còn nhiều ký ức nữa, nhưng viết ra lại buồn. Viết về kỷ niệm nghĩ thật dễ, nhớ gì viết đó, nhưng với tôi thật khó khăn, vì lại càng đau, phải chìm mình vào hình ảnh nhạt nhòa của ký ức thời gian. Tất cả, những kỷ niệm về một thời khốn khó.
Tôi luôn tâm niệm, bố, má và Mí, ba người đang có một chuyến đi chơi thật xa, vui sướng bên nhau, rồi sẽ quay về với tôi của ngày xưa, trong căn buồng gác 3 nhà 96 phố Huế, nhỏ hẹp, ấm cúng và hạnh phúc. ■
Kỳ tới: NSƯT Quế Trân viết về NSND Thanh Tòng: "Thưa ba, con đi hát!"
Cha: Lưu Quang Vũ (1948 - 1988), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Ông nổi danh với hàng loạt kịch bản xuất sắc, nổi tiếng nhất là các vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Lời thề thứ 9”, “Lời nói dối cuối cùng” và các tập thơ “Mây trắng của đời tôi”, “Bầy ong trong đêm sâu”, “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi”... Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ mất đột ngột vì tai nạn giao thông trên đường đi công tác cùng người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai nhỏ của hai người - cháu Mí (Lưu Quỳnh Thơ). Con: Lưu Minh Vũ (sinh năm 1970 tại Hà Nội, tên thân mật là Kít), nhà báo, hiện công tác tại VTV. Là con trai của Lưu Quang Vũ với người vợ đầu - diễn viên điện ảnh Tố Uyên, Kít gọi nhà thơ Xuân Quỳnh là “má”. |
Ý kiến bạn đọc