Giọt lệ rơi xuống làm chén vỡ tan và anh Trương Chi cũng biến mất. Liền mấy năm
sau đoàn Chuông Vàng, rồi đoàn Kim Phụng thỉnh thoảng lại thay nhau về làng tôi
diễn những Kiều, Lý Công, Thanh Xà - Bạch Xà…
Những tài tử hồi đó như cặp
Tiêu Lang - Kim Xuân (song thân, phụ mẫu của Nghệ sĩ nhân dân Như Quỳnh) của
Đoàn Chuông Vàng rồi Lệ Thanh, Tùng Lâm của đoàn Kim Phụng làm mê đắm làng tôi
đến độ làng Chèm tôi thành lập một đội cải lương, tập rồi diễn cả những vở
dài.
Một
cảnh trong vở “Chu Văn An - Người thầy của muôn đời” của Nhà hát chèo Quân
đội.Chị Nhạn là con ông mổ thịt lợn, sáng nào cũng đội mâm
đồng, trên đặt dăm, bảy bát tiết canh, vắt ve đôi tay đi từ nhà chị đến cuối dốc
bến Ngự chừng gần nửa cây số lại quay về thu đĩa. Ấy vậy nhưng chị lại là kép
chuyên đóng những vai nữ chính trong mọi vở diễn của làng tôi, từ Công chúa
trong Lý Công, Kiều Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên… Mặc dù cải lương làng tôi
những năm cuối thập kỉ 50, đầu 60 của thế kỉ trước thịnh là thế nhưng mỗi khi
hội đình mở ra thì thế nào cũng phải thuê một đội chèo về diễn ở sân
đình.
Các cụ làng tôi bảo: “Cải lương hay thì hay thật nhưng chỉ để xem
chơi thôi chứ không có chèo thì hội vẫn như thiếu thiếu thứ gì ấy”. Sau này tôi
mới ngẫm. Làng tôi bán nông, bán thương thì cải lương dễ vào cũng có cái lý.
Nhưng nghề chính vẫn là nghề nông nên phải có tiếng hát chèo mới nổi lên hồn cốt
của làng là ở cái nhẽ ấy.
Vừa rồi, có may mắn dự mấy buổi biểu diễn của
Cuộc thi nghệ thuật sân khấu chèo chuyên nghiệp toàn quốc năm 2013, tôi càng
ngẫm về cái lý vì sao chèo vẫn được dân ta mê say là vậy. Muốn để cho dân mê say
thì chèo phải ra chèo, từ kịch bản cho đến người diễn. Cũng xin nói luôn cuộc
thi chèo lần này lại diễn ra ở Hải Phòng, một thành phố chẳng những công nghiệp
phát triển mà còn có cả một hệ thống cảng thông thương với nước
ngoài.
Vậy mà thường ngày chả cứ Hải Phòng mà gần như phía Bắc hơn hai
chục năm nay, hầu hết các nhà hát đêm đêm tắt đèn. Nhà hát nào có vở thì cũng
chỉ lèo tèo vài ba khách yêu nghệ thuật hoặc có giấy mời đến xem. Vậy mà 14
ngày, đêm với 14 đoàn nghệ thuật chèo mang đến cuộc thi 26 vở diễn mà gần như
đêm nào cũng chật ních khán giả.
Nhất là với các đoàn đã có thương hiệu
với dàn diễn viên chẳng những có ngôi sao mà diễn những vở có chuyện (nói như
tiếng xưa là có tích hay. Có tích mới dịch nên trò là bởi vậy) như Nhà hát chèo
Quân đội, Nhà hát chèo Hà Nội… thì hầu như rạp hát không còn chỗ chen chân.
Người ngồi kín cả những lối đi giữa hai hàng ghế, đứng đầy ngoài hành
lang.
Cũng tiện đây tôi cảm thấy Ban tổ chức hình như không lường trước
được sự hấp dẫn của một cuộc thi chèo nên đã bố trí toàn bộ các tiết mục dự thi
diễn tại rạp Tháng Tám - một rạp hát từ quy mô, số lượng chỗ ngồi đến phương
tiện phục vụ đêm diễn không xứng tầm với một cuộc thi sân khấu chuyên nghiệp
mang tầm quốc gia.
Tôi có có may mắn được dự buổi biểu diễn của Nhà hát
chèo Quân đội trình diễn vở Chu Văn An - Người thầy của muôn đời (một trong ba
tiết mục đoạt Huy chương Vàng cuộc thi) mới thấy sức hút của chèo mạnh mẽ như
thế nào. Vì khán giả đến xem gần gấp đôi sức chứa của rạp nên sự ồn ào, chen lấn
thật ghê gớm nhưng khi tiếng trống chèo nổi lên báo hiệu tiết mục bắt đầu thì
khán giả im phăng phắc theo dõi, chốc chốc lại rộ lên những tiếng cười râm ran
theo tiếng pha trò của hề, hay tiếng vỗ tay tán thưởng điệu hát của diễn viên,
lời thoại đắt.
Một
tiết mục trong lễ bế mạc.2. Vì sao chèo lại có sức hút ? Vì sao dân
ta vẫn mê chèo đến thế ? Nếu nói về đặc trưng sân khấu truyền thống của mỗi dân
tộc thì với Trung Quốc là Kinh kịch, với Nhật là kịch Nô và với Việt nam là
chèo. Chèo có thể nói là loại hình nghệ thuật tiêu biểu cho văn hoá lúa nước ở
nước ta. Cái nôi của chèo là đồng bằng châu thổ sông Hồng. Mỗi khi thu hoạch
xong thì cũng là lúc lễ hội được tổ chức để mừng vụ mùa thắng lợi. Trong lễ hội
này có vui chơi, ca hát, trong đó chèo đóng vai trò chính. Trong chèo thì trống
lại giữ sự chủ đạo. Trong dân gian đã có câu ca dao khá đắt mô tả sự hấp dẫn của
hình thức văn nghệ dân gian này:
Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục
trống chèo bế bụng đi xem
Chẳng thèm ăn chả, ăn nem
Thèm no cơm
tẻ, thèm xem hát chèo.
Khi mới ra đời vào thế kỉ thứ X, chèo chỉ có tính
chất là những trò nhại những sự việc thường ngày như cấy, hái, giã gạo, bắt cua…
Hình thức diễn xướng chỉ có nói và ngâm tuỳ hứng và chưa có tích. Hai thế kỉ sau
mới có hát và những tích trò đơn giản. Thế kỉ XVIII là thế kỉ đã xuất hiện những
biểu hiện ban đầu báo hiệu sự suy tàn của chế độ phong kiến cũng chính là thời
gian thịnh vượng nhất của nghệ thuật chèo.
Sau gần một chục thế kỉ hình
thành, phát triển, nghệ thuật chèo đã hoàn chỉnh ở hình thức cao với hàng loạt
vở diễn kinh điển trong đó nhiều vở bắt nguồn từ truyện nôm khuyết danh như Quan
Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nhan, Trương Viên, Nhị độ mai, Phạm Tải Ngọc
Hoa, Tống Trân Cúc Hoa… Phía nam, tuồng bắt đầu ra đời. Các tích phần nhiều mô
tả cuộc sống cung đình thì với chèo càng được quần chúng nhân dân ưa chuộng vì
đều diễn tả cuộc sống của người bình dân và thể hiện ước vọng của quần chúng là
cái thiện luôn luôn thắng cái ác.
Nghệ thuật chèo còn được quần chúng
nhân dân ưa thích bởi tính hài dân gian, nhẹ nhàng mà thâm thuý thông qua ngôn
ngữ, câu hát của các nhân vật đại diện cho tiếng nói của quần chúng nhân dân đả
kích thói hư tật xấu, cường quyền, cả vua, quan… Những nhân vật hài gần như là
một hình mẫu cố định có thể lắp từ vở này qua vở khác như hề các loại (hề áo
ngắn, áo dài, hề mồi, hề gậy…), thầy mù, Hương câm, Đồ điếc…
3. Thủa xưa
người biểu diễn chèo đa phần là những diễn viên nghiệp dư. Những cô bác nông dân
có năng khiếu hát, múa khi nông nhàn tập hợp nhau lại để diễn nên gọi là phường
chèo. Sân khấu chèo là đôi ba manh chiếu trải nên gọi là chiếu chèo. Lối diễn
ngày xưa cũng thường coi trọng diễn ngẫu hứng khác hẳn lối diễn theo kết cấu năm
hồi của kịch cổ điển châu Âu. Yếu tố gián cách trong chèo cổ điển phần nào giống
như sự gián cách trong lý luận kịch của Bectôn Brêch. Điều này tiêu biểu trong
câu xưng: “Ta ra đây có phải xưng tên không nhỉ?...”.
Nhưng khi trò
chuyện với Nghệ sĩ nhân dân Doãn Hoàng Giang - đạo diễn hàng đầu của sân khấu
Việt Nam, một người đọc nhiều, hiểu rộng, ông nói: “Tưởng chất tự sự làm chèo
lỏng lẻo, những kì thực rất chặt về tính kịch vì nó phản ảnh một cách chân thực
mâu thuẫn cuộc sống theo cách của chèo. Ngày nay có giai đoạn chèo không hút
được khán giả.
Nhiều nhà lý luận đã đổ lỗi cho tốc độ, nhịp sống hôm nay
không phù hợp với chất tự sự chậm rãi của chèo. Nhiều phương tiện nghệ thuật
hiện đại lấn át v.v và v.v. Nhưng theo tôi, nguyên nhân lại bắt đầu từ sự làm
chèo. Sự cách tân là một điều kiện luôn làm cho nghệ thuật tiệm tiến với khát
vọng hưởng thụ của khán giả.
Nhưng nếu đi không đúng hướng sẽ làm mất đi
một loại hình sân khấu đầy tính dân tộc từ nội dung đến hình thức như chèo. Điều
này cũng có nghĩa là làm chèo mất khán giả. Không ít vở chèo không còn là chèo.
Nói đúng hơn là chèo bị tước bỏ gần hết những tính chất đã làm nên một vở chèo
đúng nghĩa. Không ít vở diễn chèo được chuyển thể từ kịch bản kịch nói, hay viết
theo kết cấu kịch nói rồi chêm làn điệu chèo vào.
Cách kể đặc trưng chèo
không còn nên các làn điệu chèo trong các vở đó chập chững, trật lất giống như
nồi cơm độn khoai, sắn. Nhiều vở chèo lại chỉ là sự minh hoạ quá thô thiển những
chủ trương chính sách như kiểu ”anh Tấm chị Điền” hồi cải cách ruộng đất. Cứng
nhắc từ cốt chuyện đến nhân vật. Ngay cả nhân vật hề nổi tiếng làm nên đặc trưng
của chèo cũng bị xem nhẹ hoặc có một cách lấy lệ.
Hôm tôi gặp Nghệ sĩ ưu
tú - danh hài Xuân Hinh, anh cho biết vừa đi Mỹ nhận giải Người nghệ sĩ dân gian
có công giữ nghệ thuật chèo và chầu văn. Nghệ sĩ Xuân Hinh than thở với tôi rằng
bây giờ nhiều vị núp dưới chiêu bài cách tân đã phá chèo nhiều quá. Nhìn sự u
sầu hiện trên nét mặt của nghệ sĩ chuyên mua vui cho thiên hạ, tôi chợt thấy dư
vị đắng ngắt trong lòng.
Từ chiếu chèo dân gian của các phường chèo diễn
giữa sân đình, đến nay chèo được khoác chiếc áo của vở diễn ít nhiều có tính hàn
lâm trên sân khấu dưới ánh điện chói loà. Từ giọng hát mộc véo von của người
nghệ sĩ dân giân nay các làn điệu chèo được tăng âm, echo (âm thanh nhại) qua
những microphim, qua dàn tăng âm. Từ chiếc mõ tre, trống cơm, trống đại được
thay thế bằng dàn nhạc điện tử… thì việc chèo thay đổi để phù hợp với khán giả
hiện nay không chỉ là những anh chị nông dân vừa từ đồng sâu, đồng cạn lên thì
việc thay đổi diện mạo vở diễn của chèo cũng là hợp lý.
Nhưng để chèo dù
trong hình hài hiện đại thế nào vẫn phải giữ được hồn cốt của loại hình nghệ
thuật cổ truyền này. Tôi nhớ Liên hoan chèo đề tài hiện đại diễn ra ở Thái Bình
cách đây ba năm không có sức hấp dẫn như Hội thi chèo 2013 trong đó có tới 21/24
vở diễn là đề tài lịch sử, cổ sử, dã sử….Và ba Huy chương Vàng cao quý nhất dành
cho ba tiết mục cũng đều là đề tài dã sử. Từ đó cần hiểu đề tài nào phù hợp với
loại hình này thì nên phát huy, tránh sự áp đặt khiên cưỡng.
Chính sự phù
hợp của đề tài đã mang lại sức hút cho vở diễn. Cho đến bây giờ các vở Kinh kịch
của Trung Quốc, các vở kịch Nô của Nhật Bản vẫn lấy đề tài cổ xưa là vì thế. Vậy
tại sao kịch bản chèo không phát huy mảng đề tài dã sử, cổ sử phù hợp hình thức
thể hiện của nghệ thuật chèo mà lại cứ ép nghệ thuật chèo thể hiện các chủ đề mà
kịch nói phù hợp hơn. Theo dõi hội thi lần này tôi còn nghĩ đến sức hút của các
vở diễn chèo còn căn cứ vào các làn điệu chèo sử dụng đúng chỗ để thể hiện tâm
trạng của nhân vật, của trường đoạn kịch được thể hiện bằng những giọng ca có
nghề.
Có lẽ trong hội thi này Nhà hát chèo Quân đội tỏ ra rất có chuyên
môn khi chất giọng của hầu hết diễn viên từ vai chính đến vai phụ đều giữ được
đặc trưng của chèo. Họ không chỉ hát đúng làn điệu mà còn thể hiện được sự nhấn
nhá “vang, rền nền, nảy” đặc trưng của nghệ thuật dân ca Việt Nam. Điều cuối
cùng tạo ra sự hấp dẫn đối với khán giả là vai trò của các ngôi sao. Hay nói
theo giọng nghề là các kép chính.
Tôi đã chứng kiến từ bác xích lô, anh
tài xế tắc xi, đến những khán giả đều náo nức bàn tán khi biết đêm diễn Chu Văn
An - Người thầy của muôn đời của Nhà hát chèo Quân đội có Nghệ sĩ ưu tú Tự Long
sẽ thủ vai chính. Trong vai diễn này từ một nghệ sĩ có năng khiếu diễn hài, Tự
Long đã hoá thân thành một thầy Chu nho giáo đường hoàng, đĩnh đạc trong cách
diễn, trong những lời thoại và cả giọng hát điêu luyện, chủ động, linh hoạt của
anh.
Hơn mọi thể loại nghệ thuật khác, mọi loại hình sân khấu đều cần
những ngôi sao. Chính họ đã thành tâm điểm của đêm diễn và tạo ra sức hút cho
đêm diễn. Dường như lâu nay sân khấu chèo đã bỏ quên việc đào tạo ngôi sao sau
khi những Thanh Trầm, Quốc Chiêm, ít nhiều của Xuân Hinh ít diễn đi…
Dân
ta còn mê chèo lắm. Hội thi nghệ thuật sân khấu chèo chuyên nghiệp toàn quốc
2013 ở Hải Phòng tháng 10 vừa qua đã thêm một lần khẳng định điều này. Mong các
nhà quản lý, chuyên môn làm chèo, các nhà hát chèo nên lấy đó là mục tiêu cho sự
xây dựng và phát triển nghệ thuật của mình .
Quỳnh Mai ngày 4/11/2013
Nguyễn Hiếu
Ý kiến bạn đọc