Chuyện về “ông hoàng cải lương đất Bắc

Chuyện về “ông hoàng cải lương đất Bắc
Nghệ sĩ duy nhất của giới cải lương miền Bắc cho đến nay, vinh dự được tặng giải thưởng danh giá bậc nhất Việt Nam - Giải thưởng HCM - là NSND Sỹ Tiến (1916 - 1982), một nghệ sĩ toàn năng hiếm có của nền sân khấu VN thế kỷ 20, người được giới nghề ghi nhận tài năng xuất chúng và nhân cách lớn.

Đón nhận giải thưởng từ Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, là người vợ ông – NSƯT Khánh Hợi (90 tuổi), hiện là nữ nghệ sĩ cải lương (CL) cao tuổi nhất VN. Do con cái sống ở nước ngoài và TP. HCM, việc làm hồ sơ chậm, nên sau khi qua đời 30 năm, NSND Sỹ Tiến- cánh chim đầu đàn của CL miền Bắc mới được tôn vinh – niềm vinh dự không chỉ riêng cho gia đình, dòng họ ông, mà còn với nghệ thuật CL Bắc.

Tầm vóc lỗi lạc và những tác phẩm đỉnh cao của ông, bao năm qua vẫn được truyền tụng, đề cao qua những đánh giá đầy trân trọng của các học giả, nghệ sĩ nổi tiếng các thế hệ. Sau khi qua đời, hai lần ông được tôn vinh, và đều là người đầu tiên của CL Bắc: danh hiệu NSND đợt 1 (1984), và giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 4 (2012).


Cố NSND Sỹ Tiến.

1. NSND Doãn Hoàng Giang - Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội NSSK VN nhấn mạnh: “Tôi rất yêu mến và kính trọng ông Sỹ Tiến, vừa tài, vừa đẹp, một vẻ đẹp văn minh. CL là nghệ thuật kịch hát xuất xứ từ miền Nam, mà Sỹ Tiến lại nhiều lần dẫn đoàn vào Nam - cái nôi CL. Đúng như ông mong muốn, miền Bắc chính là “chiếc xe nôi” đưa CL tiến lên. Tại Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, ông đã làm nghiêng ngả cả nghệ sĩ lẫn khán giả CL và được gọi là “ông hoàng CL đất Bắc”. Nhiều kỷ lục của Sỹ Tiến đến nay chưa ai vượt được”. 

Niềm vui lớn cuối đời của lão nghệ sĩ Khánh Hợi là sự tưởng thưởng xứng đáng cống hiến lớn lao của NSND Sỹ Tiến với CL nói riêng, nền sân khấu (SK) VN nói chung. Từ Paris, bà đã bay một mình về Hà Nội hôm 25/3, để chờ đón ngày trọng đại. Tuổi cửu thập vẫn minh mẫn, đôi mắt bà ánh lên hạnh phúc mà lệ chứa chan.

SK là cuộc sống của vợ chồng bà. Họ vào nghề từ năm 8 tuổi và tận lực đúng nghĩa “sinh nghề tử nghiệp”. Sỹ Tiến đã xả thân trọn đời vì sân khấu bằng tình yêu, đam mê mãnh liệt từ tài năng kiệt xuất, đa dạng nhiều lĩnh vực. GS-Anh hùng lao động Vũ Khiêu, người bạn thân cùng tuổi NSND Sỹ Tiến nhận định: “Sỹ Tiến - sống chết vì sân khấu bằng tài năng toàn diện, nhân cách cao cả, là nghệ sỹ lớn trong các nghệ sĩ lớn nhất, ngôi sao sáng trong những ngôi sao sáng nhất của nền SK VN thế kỷ 20”.

2. Năm 1957, Sỹ Tiến tham gia sáng lập Hội Nhà văn VN, Hội Nghệ sĩ sân khấu VN khi đã có mấy chục năm tuổi nghề trên cả hai lĩnh vực. Thiên khiếu cho ông sự say mê, can đảm theo nghiệp dẫu bao nhọc nhằn khổ ải. Cậu bé Nguyễn Xuân Kim (tên thật của ông) rất nhỏ đã thuộc, ngâm thơ Phan Bội Châu theo ông nội, 8 tuổi lên SK, 14 tuổi viết được những bài ca đầu tiên, theo đúng niêm luật bài bản; 18 tuổi đã lẫy lừng SK ba miền, có cuộc đời như một vở diễn, một bộ phim li kỳ, một  tiểu thuyết chương hồi hấp dẫn, gay cấn. Và khi nhân vật chính đã từ trần 30 năm, xem kịch bản (KB) của ông, tất cả vẫn còn sống động, gây dư chấn.

Đọc tác phẩm Sỹ Tiến, nghe những nghệ sĩ cùng thời, học trò Sỹ Tiến kể lại, tôi như “nhập đồng” tình yêu sân khấu (SK) của bậc tài hoa.

Chưa một hồi ký nào khiến tôi bị cuốn hút và xúc động đến thế. Đích thực những trang viết “chưng cất” từ mồ hôi, nước mắt, tim não tác giả, làm sống dậy cả một “triều đại” kịch hát thăng hoa hơn nửa thế kỷ, có danh vọng lẫn đắng cay, hạnh phúc và mất mát. 

Vì quá mức khiêm tốn, ông đã giấu mình khi viết về hành trình SK trong vai trò của một kép chính, soạn giả danh tiếng được các bạn, đoàn, gánh 3 miền nể trọng, là chứng nhân của các sự kiện SK mà ông tham gia, như một nhân tố chủ lực. Độc giả tinh vẫn nhận ra nỗi thiết tha ham cống hiến, tình nghĩa, sự liên tài của ông với đồng nghiệp trong Nam ngoài Bắc. 



Cố NSND Sỹ Tiến vai Ngũ Tử Tư (năm 1935).

3. Lịch sử CL miền Bắc và lịch sử cải lương VN có một “sử gia” ghi lại, đó là Sỹ Tiến, cuộc đời ông như “biên niên sử” của sân khấu HN. Tầm vóc hàng chục công trình nghiên cứu các lĩnh vực tuồng, chèo, cải lương, giáo trình hướng dẫn sử dụng nhạc cụ dân tộc của SK kịch hát dân tộc (đã in sách hoặc lưu trữ tại Viện Nghệ thuật SK) khiến “ Sỹ Tiến là người đầu tiên nghiên cứu và viết giáo khoa thư - nền tảng của Cải lương học” như Phó GS Tất Thắng viết về ông.

Nhiều công trình nghiên cứu sau này đều từ nền tảng tinh hoa ấy, mà tác giả hoàn toàn tự học, không học hàm học vị. Tác phẩm của Sỹ Tiến là khối lượng đồ sộ gần 100 KB. Nhìn danh mục tác phẩm của ông, tôi kinh ngạc không hiểu nổi bộ não sáng tạo ấy đã viết khi nào lúc nào khi đời sống qua nhiều nổi nênh, gánh vác vai trò lãnh đạo, lo từ chuyên môn tới cơm áo cho anh em, gây dựng tiếng tăm cho các đoàn, mà chẳng màng danh lợi. 

Cả đời ông không hề lĩnh lương, không biết giữ tiền, chịu nhiều thua thiệt. Vợ ông lại tính nghệ sĩ hào phóng, nên ông bà chẳng thể giàu, với đàn con 8 đứa và những đứa cháu nghèo phải nuôi, với thân thể bị bệnh phổi, gan từ 1962 rồi đau dạ dày nặng - bệnh nghề nghiệp sau những vai diễn để đời. 

Trả giá ư? Nếu coi đó là trả giá, thì Sỹ Tiến đã dám trả rồi. Trong sự “hoang tưởng” của tuổi trẻ, giả dụ có sống gấp đôi số mệnh mình, tôi không viết nổi 1/5 lượng tác phẩm Sỹ Tiến. Và tôi biết, rất nhiều người kính phục ông, không chỉ bởi tài năng phi thường mà bởi tất cả họ cộng lại, cũng không thể có độ điên say tận hiến đến phút cuối như Sỹ Tiến, người được những người bạn danh tiếng trong giới cầm bút gọi là “Victor Hugo Việt Nam” “Molière Việt Nam” bởi sự đa dạng và tính nhân văn, hài hước trí tuệ trong các vở diễn mà ông là tác giả. 

4. Vào nghề, có năng khiếu thiên bẩm, lại sáng dạ, chịu tập, rèn mình khắc nghiệt, cậu bé Kim 8 tuổi đã được lưu diễn kiếm tiền, trong khi vẫn phải làm “hậu đài”, “chạy cờ” mà DV tập sự học nghề phải trải. Trưa nắng to, bà chủ gánh bắt cậu mặc mũ mão cân đai, đi hia, ngồi xe rong khắp thị xã Bắc Giang, quảng cáo cho suất diễn tối. Mấy chị mới lớn, có chút tiền buôn bán, viết thư tình, mua nước hoa gửi qua bà hàng nước cửa rạp. 

Khổ nỗi, cậu bé xinh trai hát hay múa đẹp kia nào biết chuyện ái tình. Các chị kéo nhau “bao vây” cửa rạp, đòi lại quà. Kinh hãi, Kim bỏ Bắc Giang về Hà Nội. Từ đây, cậu lại đi bộ đến Nam Định, rồi nhập ban gánh vào Nghệ An, gặp anh ruột. Cậu xin phép, cũng là thông báo, cậu sẽ theo đoàn Mụ Giám (ông chủ gánh người Hoàng tộc, ở Huế đàn ông quyền quý cũng gọi là “Mụ”) vào Huế. Rồi thọ học Tư Hợi - thầy tuồng của đoàn. Một hôm, bọn sở cẩm bắt thầy Tư Hợi, vì đoàn diễn “Ngũ hổ bình tây”, bị quy “bình Tây” là “đánh Tây”. 

Mụ Giám theo kiện, xin xỏ mấy tuần không được, đoàn rã đám. Cậu bé Kim lại một mình cuốc bộ vượt đèo Hải Vân. “Cả ngày tôi chỉ ăn 2 cái bánh đa, khát uống nước ao, lần vào Đà Nẵng”. Đọc đến đây, tôi bật khóc. 


Vi Thùy Linh

Cố NSND Sỹ Tiến và câu nói bất hủ: “Nếu ta chết, đừng chôn ta!”(*)

 

“Kịch Sỹ Tiến thổ tận can tràng - một công nhân sân khấu. Bổn đoàn không quảng cáo hoang đường, quý vị sẽ thấy Chu Du hộc máu như thực, được thể hiện bởi Sỹ Tiến” - đoạn quảng cáo này cùng ảnh Sỹ Tiến là áp-phích dán khắp Hải Phòng 50 năm trước.

1. Tôi có dịp cùng danh ca Lệ Quyên - con gái út NSND Sỹ Tiến về Hải Phòng Hè 2010, cùng chị đi qua các rạp hát mà bố mẹ và chị đã diễn.

Đứng ở bến xe Tam Bạc, nơi đoàn Kim Ngọc từ Sài Gòn ra đóng đại bản doanh hồi thập niên 1950, mời Sỹ Tiến xuống diễn, chị đã khóc.

Con đông, khi có tuổi, Sỹ Tiến vẫn đi diễn. Lửa nghề làm ông bền sáng. Những vai Tống Nhân Tông (vở Tống Nhân Tông tra án Quý Phi), Ngũ Tử Tư, Quan Công, Chu Du, An Lộc Sơn là các vai thành công của ông không ai bì kịp.

 

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao Giải thưởng Hồ Chí Minh cho NSƯT Khánh Hợi - vợ cố NSND Sỹ Tiến ngày 19/5. Ảnh Nguyễn Đình Toán

Để thu hút khán giả, được ông thầy lang người Hoa mách nước, ông đun thuốc Bắc và phẩm, tối diễn thì chiều phải nhịn ăn, uống 2 lít “thuốc” ấy. Đến màn diễn, vừa hát vừa vũ đạo vẫn đứng tại sân khấu, 3 lần thổ huyết, “máu” phun 3 lần khác nhau, lần cuối như vòi rồng “phun” vào Trương Phi đỏ cả phục trang, bắn xuống khán đài. 

Màn “rùng rợn” ăn tiền này, giới sân khấu cả nước chỉ Sỹ Tiến làm được. Ông vận hơi, điều khí để “phun” được đúng lúc, đẹp và hiệu quả, là quặn thắt ruột gan. 

Đàn con 8 người, nuôi thêm các cháu, lại hiếu khách, nên căn gác 24 phố Lương Ngọc Quyến nhà ông luôn là “câu lạc bộ”, nơi tụ họp nhiều tên tuổi lớn của giới sân khấu và văn học. Những bậc lớn tuổi hơn luôn coi ông là bạn, do ông theo nghề, nổi tiếng sớm, vì tài mà trọng nhau.

2. Trước 1954, ông đã là ký giả sân khấu sắc sảo, bởi là người trong cuộc, viết về sân khấu là viết về tình yêu nước, đả kích lũ tay sai cho Tây, nên độc giả, bạn nghề gọi ông là “Molière Việt Nam” (Molière 1622-1673, nhà hài kịch lớn nhất Pháp thế kỷ 17). Chất nhân văn, khát vọng về cái đẹp, lòng bác ái trước thân phận cùng khổ, lại khiến ông được mệnh danh “Victor Hugo Việt Nam”. 

Vở kịch đầu tiên trên sân khấu Hà Nội sau ngày giải phóng, tháng 10/1954 cũng là vở đầu tiên viết về đề tài công nhân Giành ánh sáng tự do (được Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN chọn là 1 trong 100 vở hay nhất) do Sỹ Tiến viết. Báo L’ Humanité (Nhân đạo) của cơ quan T.Ư Đảng Cộng sản Pháp số ra 9/5/1955 đã giới thiệu về Sỹ Tiến và vở này, ví nó như vở:Mặt trời là của chúng tôi, Tổ quốc khi phát xít chiếm đóng Paris của Pháp.

 

NSND Sỹ Tiến và NSƯT Bích Được (vai Hoạn Thư) trong phòng hóa trang rạp Chuông Vàng, trước giờ diễn vở Kiều (1962)
3. Cả đời Sỹ Tiến không được phân nhà, chưa một lần xuất ngoại. Văn cách, tâm hồn ông luôn phóng khoáng, rộng mở, đầy yêu thương. 

Bút tích Thế Lữ chép tặng lớp kịch An Lộc Sơn và Dương Quý Phi làm quà tặng sinh nhật 60 Sỹ Tiến, ghi rõ: “Thân ái tặng anh Sỹ Tiến lớp kịch mà anh đã sống với An Lộc Sơn những giây phút tuyệt vời trên sân khấu ngày nào”.

Nghệ sĩ Võ An Ninh thì tặng ảnh đen trắng ông ngồi đò trên suối Yến, rủ bạn Sỹ Tiến du xuân chùa Hương. Còn học giả Hoa Bằng thì viết“Trên trang hý khúc thân yêu/ Có danh Sỹ Tiến hùng kiêu, anh tài”. ĐD-NSND Phạm Văn Khoa cứ tiếc vì chưa mời được Sỹ Tiến vào một phim của ông.

Bị huyết áp cao, tai biến, vậy mà hễ tỉnh, ông lại nhắc đến nghề, hỏi thăm đồng nghiệp. 

Năm 1976, ông được cử vào TP.HCM thanh tra văn hóa, gặp lại các bạn thời tuổi trẻ, những người từng giữ, mời ông vào Nam mở đoàn hát. Lúc ốm nặng, ông vẫn ước ao vào Sài Gòn vì nhớ bạn, thương những ngôi sao vang bóng quạnh hiu tuổi xế chiều. 

Khi nghệ sĩ Kim Chung từ Pháp về, tới BV Việt Xô thăm ông, kỳ lạ thay, Sỹ Tiến minh mẫn lạ thường, nhớ lại tất cả kỷ niệm quan trọng của đời sân khấu, nói tới các bản thảo, dự định dang dở. Sự bừng lóe ấy là lần cuối, ngay đêm đó 17/11/1982, ông từ trần. Người nghệ sĩ sinh mùa Xuân ra đi vào mùa Đông, để lại nhiều công trình quý giá với những nhan đề khiêm nhường: Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương, Tìm nguồn âm nhạc cổ điển dân tộc, Hướng dẫn sử dụng nhạc cụ dân tộc, Nhà soạn kịch cải lương Trần Hữu Trang, Lịch sử sân khấu cải lương, Lịch sử sân khấu tuồng, Lịch sử sân khấu chèo, Viết một vở cải lương như thế nào, Ba mươi năm sân khấu cải lương XHCN…

 

“Nếu ta chết, đừng chôn ta! Hãy căng da ta lên mặt trống, để ta được sống gần sân khấu mỗi ngày" (NSND Sỹ Tiến)   

 

4. Các lão nghệ sĩ cải lương ở Hà thành, nay chỉ còn NSƯT Khánh Hợi (1923 - đang ở 1A Mã Mây), NS Tám Toàn (1920, ở 12 Ngõ Gạch), NSƯT Bích Được (1925, đang ở Thanh Nhàn, là bà ngoại ca sĩ Minh Ánh, Minh Anh), vợ chồng NSƯT Tiêu Lang (1929) và Kim Xuân (1931) vẫn ở 48 Bát Đàn, NS Châu Thuận (1926, ở 37 Hàng Ngang), đều đã ngoài 80, 90 tuổi. Đó là những tài danh quý báu của Thủ đô, của sân khấu VN. Tất cả họ đều không quên Sỹ Tiến. 

Và di sản đồ sộ của sự nghiệp Sỹ Tiến, vẫn kéo dài ánh sáng không chỉ trong hồi quang ký ức, mà trong khát vọng của những tình yêu máu thịt, đam mê dành cho sân khấu VN của các lớp thế hệ nghệ sĩ chưa bao giờ lụi tắt. NSND Sỹ Tiến có một câu nói được nhiều người biết, nay đã thành bất hủ. Câu nói vẫn còn như vang vọng khắp các sân khấu, các ngõ ngách của đời sống sân khấu, không chỉ phía hào quang sáng đèn, mà cả sau cánh gà, nơi “hố nhạc” (vị trí của các nhạc công đứng, ngồi để chơi trực tiếp cho vở diễn). Đó là ngọn lửa tiếp truyền cho các nghệ sĩ thời ông và sau này: “Nếu ta chết, đừng chôn ta! Hãy căng da ta lên mặt trống, để ta được sống gần sân khấu mỗi ngày”. 

Với Sỹ Tiến, sân khấu là sự sống. Ông đã truyền tình yêu nghệ thuật, văn chương cho các con, truyền lửa cho đồng nghiệp của mình. Ông vẫn sống, bóng tỏa một “dị nhân” bằng vai diễn và máu chữ của người đã tận hiến cho sân khấu đến cả linh hồn.

Vy Thùy Linh


Nguồn tin: tcgd theo TT-VH