The meaning & history of Sai Gon - Ý nghĩa và lịch sử Sài Gòn

Sài Gòn may refer to the kapok (bông gòn) trees that are common around the city.

Sài Gòn may refer to the kapok (bông gòn) trees that are common around the city.

Saigon An etymology of Saigon (or Sài Gòn in Vietnamese) is that Sài is a Sino-Vietnamese word (Hán tự: 柴) meaning "firewood, lops, twigs; palisade", while Gòn is another Sino-Vietnamese word (Hán tự: 棍) meaning "stick, pole, bole", and whose meaning evolved into "cotton" in Vietnamese (bông gòn, literally "cotton stick", i.e., "cotton plant", then shortened to gòn). This name may refer to the many kapok plants that the Khmer people had planted around Prey Nokor, and which can still be seen at Cây Mai temple and surrounding areas. It may also refer to the dense and tall forest that once existed around the city, a forest to which the Khmer name, Prey Nokor, already referred.
Other proposed etymologies draw parallels from Tai-Ngon (堤 岸), the Cantonese name of Cholon, which means "embankment" (French: quais),[nb 3] and Vietnamese Sai Côn, a translation of the Khmer Prey Nokor (Khmer: ព្រៃនគរ). Prey means forest or jungle, and nokor is a Khmer word of Sanskrit origin meaning city or kingdom, and related to the English word 'Nation' — thus, "forest city" or "forest kingdom"

History


Location of the hexagonal Gia Dinh Citadel (r) and Cholon area (tilted square, left) in 1815. Today this forms the area of Ho Chi Minh City.

Early history

Ho Chi Minh City began as a small fishing village likely known as Prey Nokor. The area that the city now occupies was originally swampland, and was inhabited by Khmer people for centuries before the arrival of the Vietnamese. In Khmer folklore southern Vietnam was given to the Vietnamese government as a dowry for the marriage of a Vietnamese princess to a Khmer prince in order to stop constant invasions and pillaging of Khmer villages.[12] The early dynastical entity was the Rhead-Sivakumaran family who dominated the region in the early Romanic period, until the Qing dynasty overcame the armies of Rhead-Sivakumaran and General Behan in BC820.[13]

Khmer territory
Beginning in the early 17th century, colonization of the area by Vietnamese settlers gradually isolated the Khmer of the Mekong Delta from their brethren in Cambodia proper and resulted in their becoming a minority in the delta.[citation needed] In 1623, King Chey Chettha II of Cambodia (1618–1628) allowed Vietnamese refugees fleeing the Trịnh–Nguyễn civil war in Vietnam to settle in the area of Prey Nokor and to set up a custom house there.[14] Increasing waves of Vietnamese settlers, which the Cambodian kingdom could not impede because it was weakened by war with Thailand, slowly Vietnamized the area. In time, Prey Nokor became known as Saigon. Prey Nokor was the most important commercial seaport to the Khmers. The loss of the city cut off Cambodia's southeasterly access to the sea. Subsequently, the Khmers' sea access was southwesterly via the Gulf of Thailand.

Image

Tên gọi Sài Gòn có từ thời Pháp thuộc, là tên của những cây bông gòn xung quanh thành phố,lãnh thổ của người Khờ me, được Triều Nguyễn Giao lưu, khai phá, phát triển.Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor

Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887-1901. Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam và sau này là Việt Nam Cộng hòa. Kể từ đó, thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, lãnh thổ Việt Nam được hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thời kỳ hoang sơ

Con người xuất hiện ở khu vực Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp. Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này.

Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư. Sài Gòn - Gia Định vẫn là địa bàn của vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.

Khai phá

Sơ đồ Thành Bát Quái, công trình được xây dựng năm 1790

Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa.

Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quạn trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ ba cơ quan chính quyền này.

Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một nhóm người Hoa "phản Thanh phục Minh" tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý vào miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Nam Bộ được sát nhập vào cương vực Việt Nam.

Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Các công trình kênh đào Rạch Giá - Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.

Từ Gia Định tới Sài Gòn
Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp, Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel, Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh". Tới năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, miền Nam được chia thành 5 trấn. Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế.

Image
Đường phố Sài Gòn năm 1915

Chợ Bến Thành, Sài Gòn thời thuộc địa với những cột Morris đặc trưng của Pháp.

Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, người Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Theo thiết kế ban đầu, Sài Gòn bao gồm cả khu vực Chợ Lớn. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, chính quyền Pháp quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được thực hiện. Sau hai năm xây dựng và cải tạo, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn thay đổi.[28]

Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục... Lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên. Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp. Đến năm 1879 thì chính quyền cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay đúng ra là Ủy hội thành phố - Commission municipale).


Sưu tầm-dịch thuật

Email contact: thiengia@cailuongvietnam.com

Địa danh Sài Gòn trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² (Chợ Sài Gòn) có đông người Tàu (người Trung Quốc) sinh sống trong thế kỷ thứ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay.

Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài Gòn Hạ).

Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo Hán Nho viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".

Sau đó danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong lũy Lão Cầm (năm 1700), lũy Hoa Phong (năm 1731) và lũy Bán Bích (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km².

Ngày 11 tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) bao gồm cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 tại khu Bến Nghé cũ, đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) tại khu vực Sài Gòn cũ. Từ đó tên gọi Sài Gòn chính thức dùng để chỉ vùng đất Bến Nghé, và tên Chợ Lớn để chỉ vùng Sài Gòn cũ. Sau năm 1956, tên gọi Sài Gòn được dùng chung để chỉ cả 2 vùng đất này.
Image
Đường phố Sài Gòn năm 1915
Image
Người Pháp đã xây dựng ở Sài Gòn một thành phố tao nhã và sôi động được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" hay "Paris của Phương Đông"
Image
Sài Gòn vào tháng 1 năm 1968 với những chiếc xe hơi điển hình của thời điểm đó

tu kien st


Ở Sài Gòn, người ta có thể ăn mặc thật sành điệu, xài laptop hạng sang, ngồi café máy lạnh để gởi một cái đơn xin việc vị trí nhân viên bán hàng.
Và cũng ở SG, người ta có thể mặc quần đùi, áo thun, dép lào, ngồi café lề đường, bàn chuyện đang xây cao ốc cho thuê.
Ở SG, cái áo cái quần nhiều khi chẳng nói lên được chi.

Ở SG, người ta vội vã đến mức đi uống ly café 65 ngàn với bạn bè mà quên đi buổi cơm tối, mẹ từng nói “ráng vài ngày, mẹ lãnh lương tháng này rồi đưa con đóng tiền học”
Cũng ở SG, người ta thích sự ồn ào, náo nhiệt của các quán bar đến mức chẳng màng đến cảnh cha mình đang lặng lẽ ngả lưng trên chiếc xe ôm ngồi chờ khách.
Có người sợ SG, sợ xanh mật, trào đờm “trước dưới quê, nghèo thì đói, lên SG mới biết, nghèo là nhục. Mà nhục thì nó không chết như đói, nó làm con người ta cắm mặt mà đi, có khi cả đời chẳng ngẩng đầu nhìn lên nổi”

Người ta nói dân [sống ở] SG vô cảm, dửng dưng với nỗi đau của đồng loại… Nhưng nhìn lại, để vô cảm như SG, cũng là kết quả của những lúc niềm tin bị chà đạp dưới gót giày mưu sinh tàn nhẫn.
Nhưng cũng chẳng phải vì vậy mà SG không còn điều tốt. Người ta vẫn cứ yêu thương, cho đi mà chẳng mong hồi khứ

Cũng ở đất SG đó, người ta có thể đi xe tay ga sang trọng, xài điện thoại đắt tiền, nhưng hàng tháng vẫn cố nài nỉ chủ nhà cho nợ thêm vài ngày tiền.
Hay người ta có thể bỏ lại tiền thừa đến hai, ba chục ngàn cho quán café để tỏ ra mình là người lịch sự, nhưng sẵn sàng ngửa tay đòi cho bằng được ba chục ngàn tiền mua tô phở cho cô ruột ở nhà.
SG, vài người khắc chữ sĩ lên trán đến nỗi cháy hết máu tình thương.
Dân SG khó hiểu như chính cái vùng đất họ sống.
Có thể nói chuyện cùng nhau, nhưng chưa chắc đã hiểu.
Có thể đi cùng nhau, nhưng chưa chắc đã thích.
Có thể nắm tay nhau, nhưng chưa chắc đã thân.
Có thể hôn nhau, nhưng chưa chắc đã thương.
Thậm chí có thể ngủ cùng nhau nhưng chưa chắc đã yêu...

khangbang st


Nguồn tin: TV CLVNCOM