NGUYỆT CẦM : CÂY ĐÀN KÌM TRONG ĐỜN CA TÀI TỬ
- Thứ bảy - 30/04/2016 04:01
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
đàn kìm
Chính sức mê hoặc kỳ lạ của đàn Kìm đã thu phục tình cảm của giáo sư Nguyễn Châu sâu nặng vô cùng. Ông là một trong những người sáng lập và là giám đốc nghệ thuật đoàn văn nghệ dân tộc Lạc Hồng từ năm 1989 đến nay. Dù có khả năng biểu diễn thuần thục nhiều loại nhạc cụ như đàn Cò, đàn Bầu, đàn Tranh, Sến, Guitar phím lõm, đàn Tỳ Bà, nhưng giáo sư Nguyễn Châu yêu nhất và gắn liền với cây đờn Kìm như máu thịt.
Nét độc đáo của đàn Kìm (đàn Nguyệt)
Nói về những nét độc đáo của nhạc cụ này trong dàn nhạc dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong dàn nhạc đờn ca Tài Tử miền Nam, giáo sư Nguyễn Châu cho biết từ xa xưa, dàn nhạc ngũ âm trong cung đình theo phong cách “tứ tuyệt” (kìm, cò, tranh, độc) hay “ngũ tuyệt” (kìm, cò, tranh, độc, sáo) thì cây đờn Kìm vẫn đứng ở vị trí đầu nhóm đảm nhiệm vai trò lĩnh xướng. Còn từ khi nhạc tài tử miền Nam xuất hiện (vào giữa thế kỷ 19) và sân khấu cải lương ra đời (đầu thế kỷ 20), cây đờn Kìm vẫn giữ được vị trí “độc tôn” này.
Các bài bản trong âm nhạc tài tử cải lương cũng đều dựa vào chữ nhạc chính từ cung bậc của đờn Kìm. Những ai học ca, hay học các loại nhạc cụ khác cũng dựa vào nền tảng âm nhạc của đờn Kìm. Vì vậy cây đờn Kìm được tôn vinh là “Quân tử cầm” và là… “thầy” của các loại nhạc cụ khác trong dàn nhạc tài tử cải lương, và là “thầy” của người hát là vì vậy.
Giáo sư Nguyễn Châu nói thêm, “Tôi thấy từ xưa đến giờ những bậc nhạc sư trong đờn ca tài tử, phải biết đàn Kìm là chính, còn những nhạc cụ khác như đàn Tranh, Bầu, Cò… biết phụ thêm. Vì khi nắm vững cây đàn Kìm, thì khi học qua những cây đàn khác rất dễ. Như cá nhân tôi khi đã học vững vàng cách chơi đàn kìm, học qua đàn Tỳ Bà rất dễ, khi đàn cũng chạy mấy ngón trên dây thôi, học qua đàn Sến còn dễ hơn nữa, còn khi học qua đờn Guitar thì chỉ cần học chút xíu thôi. Nhưng nếu ai đó học trước đàn guitar rồi mới chuyển qua học đờn Kìm thì rất khó.”
Được biết ở sân khấu cải lương thời xưa, những ông bà bầu gánh hát thường phải tìm cho bằng được người đờn Kìm giỏi, để giữ song loan (giữ nhịp chính của dàn nhạc) và hướng dẫn bài bản, nhịp nhàng cho nghệ sĩ mới vào gánh hát hoặc bổ túc nghề thêm cho những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Hầu hết các nghệ sĩ cải lương tài danh ngày xưa đều học nghề bằng phương pháp này (học theo kiểu truyền ngón). Do đó các nhạc công của các loại nhạc cụ khác trong gánh hát cho đến các nghệ sĩ đều phải “kính nể” nhạc công đờn Kìm trong gánh hát của mình.
Giáo sư Nguyễn Châu độc tấu đàn Kìm. (Băng Huyền/ Viễn Đông)
Dù thời gian đầu đàn Kìm là cây đàn chính trong dàn nhạc đờn ca tài tử và cải lương, nhưng khoảng từ thập niên 1940, guitar phím lõm đã chiếm lĩnh vị trí “bá chủ” trong dàn nhạc cải lương của đờn Kìm. Bởi guitar phím lõm có nhiều tính năng và phong phú âm sắc, âm vực rộng hơn và thêm vào đó được khuyếch đại âm thanh qua hệ thống ampli. Còn đờn Kìm là nhạc cụ mộc, âm vực hẹp lại khuyếch đại âm thanh bị hạn chế và âm sắc kém trung thực.
Chính vì vậy mà từ thập niên 70 đến 90 ở sân khấu cải lương trong nước không xuất hiện những nghệ sĩ trẻ đờn Kìm kế thừa, mà chỉ còn lại các nghệ nhân “lão làng” và rất ít người học đờn Kìm. Đại đa số đều học Guitar phím lõm, Sến, Tranh... Thế nhưng từ ngày phong trào đờn ca tài tử được phát triển rộng rãi những năm gần đây trong nước, thì cây đờn Kìm được chú trọng trở lại, các nhóm đờn ca tài tử, các câu lạc bộ đờn ca tài tử đều khai thác những ngón đờn kìm “ẩn dật”, nhiều người trẻ, trung niên rủ nhau học đờn Kìm. Cây đờn Kìm đã khôi phục lại vị trí trong dàn nhạc tài tử và giữ “song loan” (giữ nhịp).
Nguồn gốc xuất xứ của đàn Kìm
Đàn Kìm của Việt Nam là nhạc khí dây gảy loại có cần đàn.
Trên một trang mạng phổ biến trên internet cho rằng “Đàn Nguyệt là một trong những cây đàn đặc sắc đã gắn bó với lịch sử dân tộc của người Việt từ khá sớm. Sách của Phạm Đình Hổ ghi rằng đàn Nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18. Tại bệ đá ở chân cột chùa Phật Tích (huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc) được xây dựng vào đời nhà Lý thế kỷ 11, còn ghi lại hình ảnh hoà tấu ban nhạc trong đó có đàn Nguyệt và các nhạc cụ khác như sáo dọc, sáo ngang, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, trống bản, trống cơm.
“Về xuất xứ, cây đàn Nguyệt của người Việt có nguồn gốc từ cây Nguyệt cầm (Yue kin) của người Trung Hoa do Nguyễn Hàn, tự là Trọng Dung đời nhà Tấn chế tạo ra. Nguyệt cầm của Trung Quốc có mặt đàn hình tròn tựa mặt trăng, được làm từ gỗ cây ngô đồng, có 4 dây chia thành 2 cặp, mỗi cặp có 2 sợi cùng âm, gắn phím thấp và đánh theo thất cung. Số lượng phím thì bằng với phím trên Đàn Nguyệt của Việt Nam nhưng còn cần đàn thì lại ngắn hơn. Phần nhiều các điểm này Đàn Nguyệt của Trung Hoa khá giống với đàn Đoản, đàn Tứ của Việt Nam.
“Khi du nhập vào Việt Nam, đàn Nguyệt đã được biến đổi để phù hợp với thẩm âm của người Việt, mặt đàn vẫn hình tròn, một số đàn vẫn giữ 4 tai nhưng rút xuống còn 2 dây, cần đàn dài hơn, phím đàn gắn cao hơn để có thể diễn tả những kỹ thuật rung, nhấn, luyến láy và đánh theo ngũ cung của người Việt. Tương tự như đàn Nguyệt Việt Nam ở Campuchia có Ðàn Chạpet, nhưng cách đánh không có nhấn luyến.”
Cấu tạo của đàn Kìm
“Đờn Kìm còn có tên gọi đàn Nguyệt (theo cách gọi của người miền Bắc) có thể do có mặt đàn hình tròn như mặt trăng.
“Đàn Kìm có đáy đàn và mặt đàn để mộc, được làm bằng gỗ nhẹ, xốp, có đường kính khoảng 30 cm.
“Trên mặt đàn có gắn ngựa đàn (hay yếm đàn) để mắc dây. Thành đàn (hay còn gọi là hông đàn) làm bằng gỗ cứng thấp khoảng 5 cm – 6 cm, có thể để trơn hay khảm trai. Hộp đàn kín hoàn toàn, không có lỗ thoát âm như đa số các loại đàn dạng gảy khác.
“Cần đàn được làm bằng gỗ cứng (có thể để trơn hay khảm trai), dài khoảng 1m trên có gắn các phím đàn bằng tre với khoảng cách không đều nhau theo thang 5 âm. Nhờ có cần tương đối dài và những phím cao, người đàn có thể tạo được những âm nhấn nhá uyển chuyển, mềm mại.
“Dây đàn được làm bằng tơ se hay dây nilon. Đàn có hai dây, dây cao (còn gọi là dây ngoài hay dây tang) nhỏ hơn dây trầm (còn gọi là dây trong hay dây tồn), thường lên dây cách nhau một quãng năm đúng và tùy theo giọng từng bài.
“Bộ phận lên dây có 4 trục gỗ xuyên ngang hai bên thành đàn của đầu đàn để lên dây, nhưng chỉ dùng hai trục để mắc và lên dây đàn. Sự hiện diện của 4 trục chứng tỏ rằng khởi thủy đàn Nguyệt là có hai dây kép (Ðàn Song Vận), về sau do nhấn không thuận tiện nên người ta bỏ bớt hai dây (kép) chỉ để một dây. Bộ phận lên dây được cải tiến để dây không bị chùng xuống.
Trục lên dây được làm bằng gỗ cứng xuyên qua hai lỗ phía đầu cần đàn.
“Ngày xưa nghệ nhân gảy đàn Kìm thường bằng móng tay dài của mình, ngày nay gãy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, phi và đặc biệt là ngón vê…kể cả những âm ngắn tạo không khí rộn ràng sôi nổi.
Các kiểu lên dây đàn chính của đàn Kìm
“Đàn Kìm có nhiều kiểu lên dây khác nhau, tuỳ theo yêu cầu của tính chất âm nhạc mà quyết định kiểu lên dây nào thích hợp.
“Lối lên dây cổ truyền của đàn Nguyệt vẫn được kế thừa tới ngày nay với 4 kiểu lên dây chính:
Dây Bắc: Dây trầm cách dây cao một quãng 5 đúng (Fà-Đô), thích hợp với âm nhạc vui tươi, hùng tráng.
Dây Oán: Dây trầm cách dây cao một quãng 6 đúng (Mì-Đô). Dây Oán thích hợp với âm nhạc nghiêm trang, sâu lắng.
Dây Tố Lan: Dây trầm cách dây cao một quãng 7 thứ (Rề-Đô). Dây Tố Lan thích hợp với âm nhạc dịu dàng, mềm mại.
Dây song thanh (giây quãng 8).
“Âm thanh Đàn Nguyệt tươi sáng, rộn ràng rất thuận lợi để diễn tả tình cảm sâu lắng. Ðàn Nguyệt có tầm âm rộng hơn hai quãng 8 từ: Đô1 đến Rê3 (C1 đến D3) nếu dùng ngón nhấn sẽ có thêm hai âm nữa.
“Tầm âm có thể chia ra 3 khoảng âm với đặc điểm như sau:
“Khoảng âm dưới: tiếng đàn ấm áp, mềm mại, biểu hiện tình cảm trầm lặng, sâu sắc.
“Khoảng âm giữa: là khoảng âm tốt nhất của Đàn Nguyệt, tiếng đàn thanh thót, vang đều, diễn tả tình cảm vui tươi, linh hoạt.
“Khoảng âm cao: tiếng đàn trong sáng nhưng ít vang.”
Đàn Kìm là nhạc cụ với nhiều ngón kỹ thuật độc đáo như nhấn, luyến, vê… có nhiều khả năng độc tấu và hòa tấu.
Theo giáo sư Nguyễn Châu, đàn kìm không chỉ giàu có về kỹ thuật, bài bản, mà còn đa dạng về kiểu kết hợp với các nhạc cụ khác.
“Là loại đàn có màu âm tơ, với kỹ thuật diễn tấu phong phú, đàn Kìm là cây đàn gẩy tiêu biểu của người Việt tham gia hầu hết trong các hoà tấu dàn nhạc cổ truyền như: dàn nhạc Hát Văn, phường bát âm ngoài miền Bắc, dàn nhạc thính phòng Huế, dàn nhạc Tài tử Nam bộ, dàn nhạc Cải lương. Đàn Kìm còn được dùng trong dàn Nhã nhạc của âm nhạc cung đình. Đàn Nguyệt có thể là nhạc cụ đi giai điệu duy nhất kết hợp với các nhạc cụ gõ khác như trống, phách, cảnh, thanh la trong dàn nhạc Hát văn, hoặc là một trong những nhạc cụ dây gẩy bên cạnh đàn Tranh, đàn Tam thập lục, đàn Tỳ Bà kết hợp với các nhạc cụ hơi, nhạc cụ dây kéo, nhạc cụ gõ trong phường bát âm, dàn Nhã nhạc của cung đình triều Nguyễn.
“Dàn nhạc thính phòng Huế, dàn nhạc Tài tử Nam bộ và dàn nhạc Cải lương chủ yếu là sự kết hợp giữa các nhạc cụ dây gẩy và nhạc cụ dây kéo như trong dàn nhạc thính phòng Huế hoà tấu 3 cây đàn Kìm, đàn Tranh, đàn Cò được gọi là Tam thanh, hoà tấu 5 cây đàn Kìm, đàn Tranh, đàn Cò, đàn Tỳ bà, đàn Tam được gọi là Ngũ tuyệt và khi dàn Ngũ tuyệt có thêm cây sáo hoặc đàn Bầu thì được gọi là Lục tấu.
“Trong dàn nhạc Tài tử Nam bộ sự kết hợp giữa các nhạc cụ cũng khá đa dạng: có thể là giữa 2 nhạc cụ cùng họ dây chi kéo (Cò dương và Cò lòn), giữa 2 nhạc cụ cùng họ dây chi gẩy (đàn Kìm và đàn Tranh hoặc đàn Kìm và đàn Tỳ bà), giữa 2 nhạc cụ dây kéo và dây gẩy (Cò dương và đàn Kìm) hay giữa 4 nhạc cụ cùng họ dây chi kéo (Cò líu, Cò dương, Cò lòn, Cò gáo), 4 nhạc cụ cùng họ dây chi gảy (đàn Kìm, đàn Tỳ bà, đàn Tranh, đàn Tam), 4 nhạc cụ giữa họ dây chi kéo và chi gảy (Cò dương, Cò lòn, đàn Kìm, đàn Tỳ bà)... Như vậy, đàn Kìm luôn đại diện cho các nhạc cụ họ dây chi gẩy trong sự kết hợp với các nhạc cụ họ dây chi kéo nên không thể phủ nhận vai trò của đàn Kìm trong hoà tấu dàn nhạc.
“Đàn Kìm tham gia chủ yếu dựa trên sự phát triển của hai yếu tố giai điệu và tiết tấu theo lôgích chiều ngang. Lối hoà tấu này thực chất là lối trùng tấu những nhạc cụ có âm sắc khác nhau. Mỗi bè tiến hành giai điệu một cách hoàn toàn độc lập, mỗi đàn lại có màu âm riêng nên các bè không bị lẫn lộn làm nhòe sắc thái của nhau. Mỗi bè diễn tấu có khả năng phát huy hết sở trường của mình như âm nhấn, láy, rung… trên cơ sở một khung giai điệu nhất định mà không bị bè khác ràng buộc. Bên cạnh đó, chính lối phát triển giai điệu theo chiều ngang lại tạo hiệu quả những quãng lạ, độc đáo giữa các bè đàn trong mối quan hệ chiều dọc.”
Đối với Đờn Ca Tài Tử hay Cải Lương, nếu người ca và người đờn mà không rành nhịp, vững nhịp thì không thể nào “thành nghề” được. Nhất là với những chơi đờn Kìm (đàn Nguyệt), yêu cầu này còn đòi hỏi gắt gao hơn. Người nào đã chơi được đờn Kìm là phải vững nhịp. Vì từ xa xưa, cây đờn Kìm luôn đứng ở vị trí đầu nhóm đảm nhiệm vai trò lĩnh xướng. Thiếu cây đàn gì thì còn cho qua nhưng tuyệt nhiên không thể thiếu đàn Kìm trong dàn nhạc truyền thống Nam Kỳ. Đàn Kìm là cây đàn được người xưa ví là “quân tử cầm,” đĩnh đạc mà khoan hòa, gợi nên sự rắn rỏi, mạnh mẽ.
Sau này, guitar phím lõm điện tử ra đời đã chiếm lĩnh vị trí lĩnh xướng trong dàn nhạc cải lương của đờn Kìm. Còn khi xưa (trước thập niên 1940) và những năm gần đây khi phong trào Đờn Ca Tài Tử trong nước được phát triển rộng rãi trở lại, cây đàn Kìm đã được định vị trở lại vị trí đầu nhóm của mình.
Giới Đờn Ca Tài Tử thường hay hòa đàn theo các hình thức như
-Song tấu: gồm đàn Kìm và đàn Tranh hoặc đàn Kìm – đàn Cò hay đàn Kìm – đàn Bầu
-Tam tấu: đàn Kìm – đàn Tranh - đàn Cò, hoặc đàn Kìm – đàn Cò – đàn Bầu
-Tứ tấu: đàn Kìm – đàn Tranh – đàn Cò – đàn Tam hoặc đàn Kìm – đàn Tranh – đàn Cò – đàn Tỳ Bà.
-Ngũ tuyệt: đàn Kìm - đàn Cò - đàn Tranh - đàn Độc Huyền và thêm ống tiêu (loại 5 lỗ)
So với những nhạc cụ dân tộc khác trong dàn nhạc tài tử cải lương, cây đờn Kìm là nhạc cụ rất khó đờn cho hay.
Theo giáo sư Nguyễn Châu (giám đốc nghệ thuật đoàn văn nghệ dân tộc Lạc Hồng) thì đàn Kìm là một nhạc cụ dễ học, nhưng rất khó đàn hay. Ông cho biết, “Khi tôi vào học trường Quốc Gia Âm nhạc (lúc 7- 8 tuổi), thấy đàn cò, đàn bầu học khó quá, nên khi cầm cây đàn Kìm lên đàn hò xự hò xang xự xang, thấy đàn này dễ học, nên xin học đàn Kìm. Nhưng khi học rồi mới thấy rằng học đàn Kìm rất khó đàn hay. Đàn Bầu học đánh sao cho ra nốt thì khó, nhưng khi ra được rồi thì rất dễ đàn hay. Đàn Cò (đàn Nhị) kéo sao cho thẩm âm ra, cũng rất dễ hay vì tay kéo rất nhẹ nhàng. Còn đàn Kìm, người học cần phải có sức khỏe, lực bấm của ngón tay phải mạnh, đồng thời hệ thống dây của nó đổi nhiều lắm. Đó là lý do vì sao mà đến giờ tôi vẫn mê cây đàn Kìm.”
Được biết nếu những người nào có năng khiếu thì học Guitar lõm, đàn Sến, Tranh... trong vòng 6 tháng là có thể đờn ca được, còn khi học đờn Kìm thì phải mất khoảng 12 tháng. Đờn Kìm là loại nhạc cụ đòi hỏi người đờn phải nhấn nhá, có khi chỉ một bậc phải ra nhiều âm sắc khác nhau. Nhất là dây “Tố Lan” của đờn Kìm hiếm người nào có thể đờn cho hay, vì ngón nhấn phải đạt đến điêu luyện.
Giáo sư Nguyễn Châu vừa đàn minh họa vừa giải thích để hiểu rõ hơn tại sao ông lại cho rằng muốn chơi đờn Kìm hay sẽ khó vô cùng.
Kỹ thuật trình tấu đàn Kìm
Đàn Kìm có tám thế bấm, ngón trỏ là ngón số 1, ngón giữa là ngón số 2, ngón áp út là ngón số 3, và ngón út là ngón số 4; Ngoài ra trong mỗi thế bấm có thể dùng 3 ngón tay (1, 2, 3) để bấm và cả ngón số 4 nữa. Mỗi nốt có thể bấm bằng một ngón, nhưng khoảng cách giữa mỗi phím đờn Kìm hơi rộng ở đầu đàn nên có thể sử dụng cả hai ngón bấm trên một phím khi thể hiện các kỹ thuật nhấn, nhấn luyến. Khi bấm đàn, ngón tay trái luôn thẳng góc với dây đàn, bấm đầu ngón tay và không gãy ngón.
Cũng theo lời của giáo sư Nguyễn Châu, đối với các âm không có trong hệ thống cung phím của đờn Kìm thì khi đàn, nếu muốn có âm đó, người nghệ sĩ phải mượn cung phím có âm thấp hơn âm định đánh, nhấn mạnh ngón tay vào cung phím đó làm dây đàn căng lên một độ nhất định, khi tay phải gảy âm muốn có đó. Cung phím này được gọi là cung mượn.
“Còn với các âm có sẵn trong hệ thống cung phím: để phát huy hiệu quả diễn tấu, nghệ sĩ không bấm vào cung phím chính mà bấm vào cung phím thấp hơn, nhấn lên rồi mới gảy.
Kỹ thuật bàn tay trái
Kỹ thuật bàn tay trái của đàn Kìm có những kỹ thuật trình tấu độc đáo để tạo nên âm sắc đặc biệt:
-Ngón nhún: đây là cách nhấn liên tục trên một cung phím nào đó, nhấn nhiều hay ít, nhanh hoặc chậm tùy theo tính chất tình cảm của đoạn nhạc. Nhấn dài hay ngắn tùy theo trường độ của nốt nhạc, nốt nhấn láy làm cho âm thanh cao lên không quá một cung liền bậc (điệu thức ngũ cung) rồi trở lại độ cao cũ nghe như làn sóng.
Ngón nhún là kỹ thuật thường sử dụng ở đàn Kìm, làm cho âm thanh mềm hơn, tình cảm hơn. Ở những âm cao tiếng đàn Kìm hơi đanh, khô nên cần sử dụng kỹ thuật ngón nhún cho những nốt có trường độ vừa phải, không ngân dài, chỉ nên từ một đến hai phách với tốc độ vừa phải.
-Ngón vỗ: Thường dùng ngón 1 bấm cung phím, tay phải gảy đàn, khi âm thanh vừa phát lên sử dụng ngón 2 hoặc cả hai ngón 2 và ngón 3 vỗ vào dây trên cùng một cung phím liền bậc ngay ở dưới cần đàn, âm mới sẽ cao hơn âm chính một cung liền bậc (điệu thức ngũ cung). Âm thanh ngón láy nghe gần như tiếng nấc, diễn tả tình cảm xao xuyến.
-Ngón chụp: Tay trái ngón 1 bấm vào một cung phím, tay phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác (thường là liền bậc cao) âm thanh từ cung phím này vang lên mà không phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động, một phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm luyến nghe yếu nhưng mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe kém vang nên ít được sử dụng. Ký hiệu ngón chụp dùng dấu luyến giữa các nốt nhạc.
-Ngón láy rền: Là tăng cường động tác của ngón láy cho nhanh và nhiều hơn với sự phối hợp vê dây của tay phải. Ký hiệu ngón láy rền sử dụng chữ tắt của trille và hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt nhạc (nếu là nốt tròn) hay trên đuôi nốt nhạc.
-Ngón giật: Ngón giật là cách nhấn trên dây như ngón nhấn luyến nhưng tính chất âm thanh khác: âm được nhấn tới vừa vang lên liền bị tắt ngay một cách đột ngột, âm thanh tiếng giật nghe như tiếng nấc, diễn tả tình cảm day dứt, thương nhớ.
-Ngón rung: Đây là ngón tạo độ ngân dài của tiếng đàn và làm tiếng đàn mềm đi ở những âm cao, âm thanh đỡ khô khan, tình cảm hơn. Dây buông cũng rung được bằng cách nhấn nhẹ ở đoạn dây sát dưới trục dây.
-Ngón nhấn: Ngón nhấn là bấm và ấn mạnh trên dây đàn làm cho tiếng đàn cao lên, có nhiều cách thực hiện ngón nhấn.
-Ngón nhấn luyến: là ngón độc đáo của đàn Kìm nên được sử dụng nhiều, đàn Kìm với phím đàn cao, phím này cách phím kia xa, dây đàn bằng dây tơ hoặc ny lông mềm mại và chùng nên dễ dàng sử dụng ngón nhấn luyến.
Ngón nhấn luyến tạo cho hai âm nối liền nhau, luyến với nhau nghe mềm mại như tiếng nói với nhiều thanh điệu, tình cảm. Khi đánh ngón nhấn luyến tay phải chỉ gảy một lần, ký hiệu ngón nhấn luyến là mũi tên đi vòng lên hay vòng xuống đặt từ nốt nhấn đến nốt được nhấn tới.
Có hai cách nhấn luyến
Nhấn luyến lên: nghệ sĩ bấm một cung phím nào đó, tay phải gảy dây, tiếng đàn ngân lên, ngón tay trái đang bấm cung phím đó lại nhấn xuống cho dây đàn căng lên nhiều hay ít tùy theo ý muốn của nghệ sĩ. Ngón nhấn luyến lên có thể trong vòng từ quãng hai đến quãng bốn. Đối với những âm ở dưới cần đàn xa đầu đàn quãng âm nhấn luyến càng hẹp hơn.
Nhấn luyến xuống: nghệ sĩ bấm và nhấn dây ở một phím nào đó rồi mới gảy, vừa gảy ngón tay nới dần ra nhưng không nhấc khỏi cung phím để sau khi nghe âm thứ nhất, còn nghe được âm thanh thứ hai thấp hơn âm thứ nhất. Âm thứ hai không do gảy mà do bấm nhấn luyến xuống, đối với âm luyến lên và âm luyến xuống không nên sử dụng liên tục với nhau vì khó đánh chuẩn xác.
-Ngón vuốt: Ngón vuốt là dùng ngón tay trái vuốt đi lên hay đi xuống theo chiều dọc của dây trong khi tay phải chỉ gảy một lần hay kết hợp với ngón vê hay ngón phi. Ký hiệu của ngón vuốt là dấu gạch nối giữa các nốt nhạc. Có 3 loại vuốt:
Vuốt lên: vuốt từ âm thấp lên âm cao. Vuốt xuống: vuốt từ âm cao xuống một âm thấp. Vuốt tự do: có 2 cách. Vuốt từ một âm chỉ định lên bất cứ âm nào (thường không quá quãng 5). Vuốt từ một âm chỉ định xuống bất cứ âm nào (thường chỉ nên vuốt xuống quãng 4). Thường thì vuốt lên âm thanh nghe rõ hơn vuốt xuống, vuốt nhanh âm thanh nghe rõ hơn vuốt chậm
-Ngón bật dây: Tay trái, ngón trỏ hay ngón giữa bấm vào một cung phím nào đó, kế tiếp dùng tay khác gảy vào dây ở ngay dưới ngón tay đang bấm để phát ra âm thanh.
Bật dây buông: sử dụng bất cứ ngón tay trái nào bật một trong hai dây buông, hay cả hai dây một lúc, ngón bật dây chỉ nên viết trong trường hợp độc tấu, không nên đưa vào bài nhạc có tốc độ nhanh hoặc nốt nhạc ở phách mạnh.
-Âm bồi: có thể đánh trên tất cả các dây nhưng chỉ nên đánh trong khoảng âm giữa, âm dưới và nên đánh những âm bồi quãng tám. Cách đánh là sử dụng ngón tay trái chặn vào đoạn dây thích hợp kể từ đầu đàn trong khi tay phải gảy dây đó.
Kỹ thuật của bàn tay phải
Những kỹ thuật kể trên là kỹ thuật của bàn tay trái khi trình tấu trên đàn Kìm, còn những kỹ thuật của bàn tay phải, gồm có
-Ngón vê: Ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm móng gảy, các ngón khác khum tròn, cổ tay kết hợp với ngón tay điều khiển móng gảy đánh xuống, hất lên đều đặn, liên tục trên dây đàn.
-Ngón gõ: Sử dụng các ngón tay phải gõ vào mặt đàn, thường được sử dụng trong lúc tất cả các nhạc khí đều nghỉ hoặc báo hiệu cho hát, cho hòa tấu hoặc điểm giữa các câu nhạc hay đoạn nhạc.
-Ngón bịt: Ngón bịt làm cho âm thanh vừa vang lên liền tắt một cách đột ngột tạo thay sự thay đổi màu âm, ngón bịt diễn tả sự u buồn, nghẹn ngào hoặc để chấm dứt một đoạn nhạc. Nếu sử dụng liên tiếp ngón bịt lại tạo hiệu quả khác : biểu lộ sự cứng rắn, dứt khoát.
Có hai cách thể hiện ngón bịt: Sử dụng bàn tay hoặc ngón tay vừa gảy chặn ngay dây đàn. Và sử dụng bàn tay, ở ngang thân ngón út chặn ngang ngựa đàn tạo ra một âm tối, đục tương tự như sử dụng hãm tiếng.
Kết luận
Nhạc sĩ Văn Hoàng (là nhạc sĩ chuyên đàn Guitar phím lõm và đàn Sến trong những chương trình cải lương, đờn ca tài tử tại quận Cam) cho rằng “Nếu trong dàn nhạc cải lương, nếu thiếu đàn Kìm, có thể thay thế bằng đàn Sến, tuy nhiên đàn Sến chỉ hay ở những giai điệu trẻ trung thôi. Còn những tình huống bi cảm, hoặc những điệu Nam oán thì sến không thể đàn hay bằng đàn Kìm được.”
Giáo sư Nguyễn Châu bày tỏ, “Vì học đờn Kìm khó đờn hay, trong nước đã ít người theo học, thì nói chi tại hải ngoại này, người theo học đờn Kìm càng hiếm hoi hơn. Những bạn trẻ theo học các nhạc cụ dân tộc tại đoàn Văn Nghệ dân tộc Lạc Hồng thường thì học guitar phím lõm, Tranh, Bầu hay đờn Cò vẫn nhiều hơn là số em theo học đàn Kìm. Dù ít ỏi, nhưng chúng tôi luôn chú ý hướng dẫn lớp trẻ học hỏi nhạc cụ này, vì chỉ có các em mới có đủ thời gian và sức lực để góp phần gìn giữ, bảo tồn nền nghệ thuật cổ truyền tại hải ngoại này sau khi lớp tụi tui qua đời thì vẫn còn có người kế thừa chúng tôi.”
BĂNG HUYỀN
Nguồn: http://www.viendongdaily.com/net-doc-dao-cua-dan-kim-trong-don-ca-tai-tu-ky-cuoi-kuJG7Jzb.html