Đang truy cập : 125
•Máy chủ tìm kiếm : 1
•Khách viếng thăm : 124
Hôm nay : 20103
Tháng hiện tại : 2194821
Tổng lượt truy cập : 88501422
Tối 29-9, vòng chung kết xếp hạng cuộc thi "Chuông vàng vọng cổ" 2024 đã diễn ra với phần tranh tài của 3 thí sinh là: Dương Thị Mỹ Nhung, Nguyễn Hùng Vương, Lê Hoàng Nghi tại Nhà hát Truyền hình HTV.
TÍNH ĐA DẠNG CỦA SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG
.
Như nhiều người đã biết Cải lương có nguồn gốc từ Ca Ra Bộ và Ca Ra Bộ xuất xứ từ Đàn Ca Tài Tử. Danh xưng có khác vì loại hình có thay đổi nhưng bài bản căn cơ nhất vẫn là những bài cổ truyền lấy từ Nhã nhạc Cung Đình Huế mang vào Nam rồi cách tân biến hoá theo thời gian, không gian để trở thành “Ba Nam ,Sáu Bắc, Tứ Oán, Bảy Lễ...” đã lần lượt được áp dụng vào sân khấu cải lương.
Theo các nhà nghiên cứu, Cải lương chính thức được trình diễn thành tuồng tích có bộ tịch, có phục trang, cảnh trí ước lệ từ năm 1918. Trong thời điểm Hát Bội đang khựng lại một cách đột ngột chứ không phát triển mạnh như hai thế kỷ trước 18, 19 trong thời nhà Nguyễn bởi cách hát, lối ca, nghệ thuật biểu diễn, tuồng tích trong Hát Bội... dần dà không còn nhiều thích hợp với người của thế kỷ 20 nữa , Cải lương ra đời như một cuộc cải cách cho mới hơn, hoàn thiện hơn đúng như ý nghĩa của hai chữ Cải Lương:
CẢI cách hát ca theo tiến bộ
LƯƠNG truyền nghệ thuật sánh văn minh.
Ngoài những bài bản được cách tân cho thêm phần mượt mà hấp dẫn người nghe, sân khấu cải lương còn có một đội ngũ trí thức sáng tác nhiều kịch bản vô cùng thú vị, đa dạng và hợp thời lúc bấy giờ. Nếu như bộ môn Hát Bội chỉ phải lệ thuộc những kịch bản gốc của người Trung Hoa, thì bộ môn Cải lương phong phú hơn bởi đó là một nghệ thuật tổng hợp không chỉ lấy từ những tác phẩm lịch sử, truyện cổ, thơ văn Việt Nam mà trong cải lương người ta còn tìm thấy màu sắc văn hoá của nhiều quốc gia trên thế giới.
2
Khi xem cải lương, người xem có thể cảm thấy gần gũi hơn trước nhất vì ngôn ngữ dễ hiểu , bài bản dễ nghe và tuồng tích thể hiện được tính thời sự hay thực tế ngoài đời . Có những lúc người xem thấy mình, gia đình mình, hay bạn bè láng giềng, dòng họ có hoàn cảnh giống như là nhân vật A, B, C...hay X, Y, Z...nào đó hiện ra trên sân khấu. Hoặc nhân vật “thân quen” từ những tác phẩm mình đã đọc trong văn học như Kim Trọng, Thúy Kiều, Hoạn Thư, Từ Hải, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Lý Thông, Thạch Sanh... hay nhân vật lịch sử anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ Quang Trung, Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... Xa hơn, một vài kịch bản lấy từ tiểu thuyết Tây phương như Giá trị và Danh dự (Le Cid) , Tơ Vương Đến Thác ( La Dame au Camélias), Bằng Hữu Binh Nhung ( Frères d’arme)....Nếu có diễn kịch bản cổ điễn hay sử Tàu như Tam Quốc Chí thì cũng không sử dụng chữ Hán nhiều như Hát Bội .
Vì văn chương trong Cải lương dễ gần gũi với dân gian , đó là một trong những điều kiện thuận lợi khi Cải lương ra đời thì chiếm lĩnh ngay vị trí hàng đầu trong lòng quần chúng.
Thời hoàng kim rực rỡ, tiến bộ vượt bực cực thịnh của sân khấu cải lương là những thập niên 1950, 1960 và 1970. Đây là thời kỳ viên mãn nhất khi sự phát triển đồng loạt trên sân khấu cải lương từ những sáng tạo nghệ thuật mới lạ như kịch bản, diễn xuất, cách ca ngâm, cách hóa trang, phục trang...tất cả hầu như được cải tiến đăc sắc đa dạng và lộng lẫy bội phần. Nếu những năm 1950 phát triển mạnh những sáng tác mới về kịch bản thì những năm 1960 lại phát triển về cải cách nghệ thuật mới cho sân khấu chẳng hạn như tân nhạc được đưa vào cải lương, hay ca múa minh họa làm sống động thêm cho vở diễn , cảnh trí thật và đẹp được trưng bày hấp dẫn làm nền cho câu chuyện, rồi còn những âm thanh, ánh sáng, phục trang tất cả càng lúc càng được cải thiện hoàn mỹ hơn...
Kịch bản cải lương là một chuỗi dài không ngừng phát triển. Sự phát triển ấy không chỉ dừng lại ở một giới hạn nào đó, mà tất cả những sáng tạo mới dành cho sân khấu cải lương được phát huy đều đặn và nhịp nhàng chuyển tiếp từ thập kỷ này sang thập kỷ khác. Nếu đội ngũ soạn giả đã làm nên giá trị lịch sử cho cải lương như các soạn giả tên tuổi Nguyễn Thành Châu, Trần Hữu Trang, Thu An, Kiên Giang, Quy Sắc, Điêu Huyền, Hà Triều Hoa Phượng, Viễn Châu, Hoàng Khâm, Nguyễn Phương... thì hàng ngũ diễn viên cũng đồng loạt xuất hiện nhiều nhân tài lỗi lạc bậc nhất , tiêu biểu nhất của sân khấu cải lương trong thời điểm này như Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thành Được, Hữu Phước, Thanh Nga, Ngọc Giàu, Hùng Cường, Bạch Tuyết, Thanh Hải, Ngọc Hương, Phượng Liên, Thanh Sang, Lệ Thủy, Mỹ Châu...v.v...
Sau năm 1975, suốt thời gian vài năm đầu kịch bản và sân khấu biểu diễn như bị chậm lại, các đoàn cải lương chỉ được phép diễn lại một số kịch bản cũ ngày xưa nhưng phải qua tuyển chọn và kiểm duyệt bởi môt Hội Đồng duyệt xét kịch bản thành lập từ chính quyền đương thời, chứ không được tự do biểu diễn theo chiều hướng nào đó tuỳ thuộc vào chủ
3
trương của Ban Giám Đốc mỗi đoàn hát như trước đây nữa. Giai đoạn này còn có tên là giai đoạn “ Cứu đói cho nghệ sĩ cải lương”. Vài năm về sau, kịch bản mới được ra đời theo xu hướng mới , tức là các tác giả phải viết theo hệ thống của nhà nước ví dụ như các đề tài “ chống Pháp, chống Mỹ ..v.v”, đó cũng là một trong những chủ trương mà các đoàn nghệ thuật bắt buộc phải khép mình theo một “ đường ray” nhất dịnh nếu như không muốn bỏ nghề .
Với tư cách khách quan của người viết, thời kỳ của những năm cuối 1970 sang thập kỷ 1980, có giá trị nhất đó là những kịch bản lịch sử cổ trang Việt Nam , nói về những anh hùng dân tộc qua các thời đại Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và nhà Nguyễn..v.v.
Lịch sử là một môn học không dễ gì thu hút sự thích thú từ những học sinh còn ngồi ghế nhà trường ngoại trừ cá nhân nào biết yêu thích và quý trọng lịch sử hoặc gặp phải thầy cô giáo giỏi tâm lý, giảng bài xuất sắc mới mong thu hút đối tượng học sinh đam mê môn học này . Nhưng nếu câu chuyện lịch sử được diễn đạt lại bằng những kịch bản cải lương thì tác dụng của nó bay xa bay cao và lan rộng rất nhanh trong lòng mọi người một cách bất ngờ và vô cùng hữu hiệu.
Điễn hình như:
Một Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh đã được nữ nghệ sĩ Thanh Nga thổi hồn vào nhân vật đã làm cho tất cả mọi người đang xem trong khán phòng tưạ hồ như nín thở, giữ được không gian tĩnh lặng để nghe rõ tiếng gọi hào hùng bất khuất vang dội, lúc ấy không còn là nhân vật Trưng Trắc của lịch sử cũng không phải là tiếng nói sắc bén hào hùng đầy khí thế của diễn viên Thanh Nga , mà đó đã trở thành tiếng nói từ hồn thiêng sông núi của Tổ Tiên, của giống nòi dân tộc từ xưa vọng về . Sự thành công tuyệt vời ấy nhờ vào nghệ thuật tổng hợp đa dạng của sân khấu cải lương.
Để chuẩn bị cho người xem ghi nhớ dấu ấn của thông điệp cần chuyển tải, trước khi câu nói quan trọng bắt đầu tuyên ngôn, ngoài sự chuẩn bị kỹ lưỡng tập trung của các nhân vật trong vở diễn, các bộ phận khác như âm nhạc, âm thanh , ánh sáng, hình tượng sân khấu đồng phối hợp nhịp nhàng hổ trợ gây sự chú ý cần thiết, rồi thông điệp mới được bắt đầu:
“ Hởi đồng bào trăm họ.
Giặc Đông Hán đang xéo giày đất nước
Nhục nào hơn nhục nô lệ ngoại bang.
Thà chết mà đứng thẳng. Không cam chịu sống quỳ.
Đất nước Nam cẩm tú.
4
Người dân Nam anh hùng.
Trước đền thờ Quốc Tổ, thề hy sinh giết giặc cứu non sông.”
( Kịch bản Tiếng Trống Mê Linh trên sân khấu Thanh Minh)
Ấn tượng hình ảnh bà Trưng Trắc cầm đuốc thiêng trước ba quân tướng sĩ tuyên thệ đồng một lòng diệt giặc bảo vệ quê hương đã là một dấu ấn không phai trong tiềm thức của mỗi người, và đó cũng là điều dễ dàng ung đúc ý chí người xem, khích động được lòng yêu nước của toàn dân đầy khí thế và tự hào dân tộc. Khi dứt cảnh này, từ trên sân khấu lúc nào cũng tạo cảm giác cho người xem mang tâm trạng vừa xúc động, vừa hãnh diện theo dòng chảy của tinh thần bất khuất: “Đứng trên đất địa linh nhân kiệt. Nguyện một lòng nối ngiệp Hùng Vương”
Tính đa dạng của sân khấu cải lương đã góp phần không nhỏ trong việc giáo dục và nuôi dưỡng lòng yêu nước cho các thế hệ nối tiếp. Ngoài Tiếng Trống Mê Linh, những kịch bản lịch sử tiêu biểu nổi tiếng và thành công khác có thể kể Câu Thơ yên Ngựa( Lý Thường Kiệt),Bão táp Nguyên Phong(đời Trần) Anh Hùng Bán Than( Trần Khánh Dư), Thanh Gươm và Nữ Tướng( Bùi thị Xuân), Thái hậu Dương Vân Nga (đời Đinh) Tô Hiến Thành Xử Án (đời Lý), Nữ Tướng Cờ Đào( Triệu Trinh Nương), Tâm sự Ngọc Hân( đời hậu Lê ), Ngọn Lửa Thăng Long( Nguyễn Huệ), Dựng Cờ Cứu Nước ( Trần Quốc Toản)...
Đất nước ta trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng, cần thiết lắm những kịch bản lịch sử hào hùng như thế hầu nhắc nhở cháu con hậu duệ về những chiến công hiển hách mà ông cha ta đã gầy dựng, đã đổ máu xương hàng bao thế kỷ cho sự sống còn của dân tộc Việt Nam ngày nay và cũng để khẳng định chủ quyền lãnh thổ trước ngoại bang Trung Cộng lúc nào cũng mưu đồ xâm chiếm nước ta như 4 câu thơ lịch sử mà danh tướng thời nhà Lý đã ghi lại trên lưng ngựa lúc ra quân chống giặc Tống ngoại xâm :
Nam Quốc San Hà Nam Đế cư ( Sông núi nước Nam vua Nam ở)
Tuyệt nhiên định phân tại Thiên Thư ( Sách Trời chính đáng định phân ngôi)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm ( Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư ( Bây sẽ tan tanh thảm bại thôi )
( Lý Thường Kiệt 1019_1105 )
Bạch Lựu ( Sydney_ Australia)
(Viết riêng cho Viet Tribune)
Mã an toàn:
Tối 29-9, vòng chung kết xếp hạng cuộc thi "Chuông vàng vọng cổ" 2024 đã diễn ra với phần tranh tài của 3 thí sinh là: Dương Thị Mỹ Nhung, Nguyễn Hùng Vương, Lê Hoàng Nghi tại Nhà hát Truyền hình HTV.
Ý kiến bạn đọc