NS MỘNG TUYỀN với MUÀ GIÁNG SINH trong Tân Cổ Giao Duyên
“ Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Mùa sao sáng năm xưa lại về đêm sinh nhật Chúa,
Sao người năm xưa quên lời hứa chưa về (hò 1).
Chạnh nhớ ngày xưa đôi bóng giao kề (hò 2). "
Nghệ sĩ Mộng Tuyền xuống câu hò 1 vọng cổ trong tiếng chuông nhà thờ đổ ngân vang, cô chắp tay ngước nhìn về hang đá có tượng Đức Mẹ và Chúa hài đồng nằm trên máng cỏ, rồi cô ém hơi bỏ nhỏ hát tiếp câu hò 2 trong tiếng đàn ghi-ta-phím-lõm hào hoa của Văn Vĩ, hòa với đàn kìm của Năm Cơ, và tiếng vĩ cầm của Hai Thơm cùng “quyện” với nhau trong bài ca Tân Cổ giao duyên “Mùa Sao Sáng”. Sân khấu rạp hát Quốc Thanh, Sài Gòn trước 1975 như bùng nổ trong tiếng vỗ tay tán thưởng, nhưng tim mọi người thì chùng xuống như lịm đi, khi cô đào đẹp nhứt nhì sân khấu cải lương có nghệ danh là Mộng Tuyền, huy chương vàng giải Thanh Tâm 1963, quỳ trước tượng đài Đức Mẹ, nước mắt cô ràn rụa chảy dài trên đôi má trong ánh sáng lung linh của hai hàng bạch lạp trên ngôi cao Thánh mẫu. Trong tiếng nhạc dập dìu trầm bổng của 6 câu vọng cổ, nàng kể chuyện thời chinh chiến, có hai người yêu nhau cùng trao lời hẹn ước trong đêm Giáng Sinh. Bên hang đá Bê Lem, nụ hôn vội vã chia tay người yêu trong thời binh lửa, chàng trai trẻ khoác chiến y ra đi biền biệt từ đêm Giáng Sinh năm xưa, đã mấy mùa sao rồi chưa quay trở lại! Mùa Giáng Sinh năm nay, nàng vẫn đứng chờ bên gác chuông xưa nghe điểm hồi chuông nửa đêm, mỏi mòn trông đợi người yêu qua mấy lần sinh nhật Chúa. Tiếng đàn cò Năm Cơ cầm chịch dẫn dắt Ban cổ nhạc khi nhặt khi khoan, quăng bắt đẩy đưa nhau từ câu 1 sang qua câu 2 vọng cổ, tiếng vĩ cầm Hai Thơm lộng lẫy, khi hơi Nam khi hơi Oán, trên nền nhạc ngũ cung. Lúc danh cầm ghi-ta Văn Vĩ nhấn nhá chuyển sang cung thương thì Năm Cơ chân đạp “song lang”, tiếng mõ vang lanh lảnh báo tin sắp chuyển giao cho Ban tân nhạc Lê văn Thiện sẵn sàng bắt nhịp khi ca sĩ xuống “xề”. Khi đó, ca nữ Mộng Tuyền tiến sát lại gần hang Bê Lem, đèn sân khấu quét ngang người, nàng nức nở hát từ dây Đào cổ nhạc hò 5 chuyển sang qua ca tân nhạc với Ban Lê văn Thiện :
“ Đêm nay tôi nhớ người chưa trở lại.
Chênh chếch mùa sao lạc loài.
Ôi! Những mùa sao lẻ đôi.
Cho tôi thương nhớ mùa sao ngày nào,
Thương những mùa sao hồng đào.
Ôi! Những mùa sao cách xa.”Sân khấu bềnh bồng như trôi dạt trong ánh sáng nhiệm mầu đêm Thánh lễ, khán giả đắm chìm trong tiếng đàn Tam tấu cổ nhạc Văn Vĩ, Năm Cơ và Hai Thơm là những đệ nhất danh cầm cổ nhạc cải lương miền Nam thời đó, cùng quăng bắt nhau, tung hứng cho nhau thật điệu nghệ, trong khi Ban tân nhạc Lê văn Thiện chờ lúc cao trào, chụp bắt, rượt đuổi Ban cổ nhạc, khi trao qua khi nhận lại, hình thành một cấu trúc nghệ thuật mới của thời đại 1960-1970, định danh là Tân cổ giao duyên. Theo mạch nhạc hết câu 5 rồi chuyền sang qua câu 6 vọng cổ, ca sĩ và hai ban Tân và Cổ nhạc như quyện vào nhau, mắt không rời nhau, khi vào Tân khi ra Cổ, nghệ sĩ Mộng Tuyền lúc thì song hành, khi thì bứt phá, rồi đợi khi Ban cổ nhạc xuống xề 24, và Ban tân nhạc “chầu” thêm nhịp 25, ca sĩ vào nhịp 26 với lời thơ áo não trong đêm Giáng Sinh thời chinh chiến:“ Người đi từ Giáng sinh xưa
Mong về tương ngộ giữa mùa hội sao.
Niềm tin xóa hết thương đau,
Mùa sao đất Việt, mùa sao thanh bình."Bài Tân cổ giao duyên Mùa Sao Sáng của soạn giả Đông Phương Tử đã ra đời trong thời binh lửa như thế, khi khắp miền Nam đã có mất mát, tang thương. Thuở đó, không khí chiến tranh lan tràn đến từng nhà, gia đình nào cũng có người thân vào quân đội. Những buổi chia tay, những giờ hò hẹn ngắn ngủi trên sân ga, trên bến tàu đưa tiễn người vào quân trường hay đi ra mặt trận, đã thấm đẩm vào thơ ca và âm nhạc. Bản Tân cổ giao duyên Mùa Sao Sáng nhanh chóng lan truyền từ sân khấu đến các Đài Phát Thanh và Truyền Hình rồi thâu vào băng và đĩa nhạc 45 tours. Miền Nam thời đó, nhứt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, ở các tỉnh Cần Thơ - Bạc Liêu vốn là cái nôi của bài ca Vọng cổ hoài lang của Cao văn Lầu, các ban đờn ca tài tử miền sông nước này bị mê hoặc cuốn hút trước một làn điệu canh tân mới mẻ, đã chung tay tiếp sức cho bài Tân cổ giao duyên bay xa. Mộng Tuyền, nghệ sĩ cải lương sân khấu vừa là minh tinh màn bạc, nổi tiếng tài sắc trong vở tuồng cải lương Dương Quí Phi và An Lộc Sơn, bạn diễn với Thanh Nga, Ngọc Giàu của đoàn Thanh Minh, đặc biệt với vai diễn để đời là sơn nữ Klai trong vở tuồng Mưa Rừng, Mộng Tuyền đã mang lại cho khán giả niềm say mê qua các bài tân cổ giao duyên Thầm Kín, Ngày Xưa Anh Nói, Thương Về Mùa Đông Biên Giới, Mùa Sao Sáng v v của soạn giả Đông Phương Tử, một bút danh của Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông.
Bài Tân cổ giao duyên Mùa Sao Sáng khi trình diễn ở Đài Truyền Hình được dàn dựng thành một liên khúc gồm hai bài Mùa Sao Sáng và Thương Về Mùa Đông Biên Giới. Khi các giáo đường vang lên bài thánh ca “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời” thì cũng là lúc người hậu phương nhớ người ngoài tiền tuyến, những chiến sĩ trấn đóng nơi miền biên giới xa xôi hay đang xông pha nơi chiến trường giửa mùa Đông lạnh lẽo. Truyền hình có thế mạnh chuyển cảnh nhanh nên khi ca sĩ hát dứt câu 6 vọng cổ bài Mùa Sao Sáng thì màn hình chiếu tiếp theo một loạt hình hoạt cảnh chiến trường trong tiếng nhạc hòa ca bài “Thương về mùa Đông biên giới”:
“ Nghe gió Đông sang, nhớ người ngàn dặm quan san.
Ú u ù u, ú u ù u ……………………
Hiu hắt trời mây, hàng cây xơ xác gió lay,
Bên thềm ngập lá thu gầy, lạnh lùng em thương nhớ ai.”Bài Tân cổ giao duyên “Thương Về Mùa Đông Biên Giới” có cấu trúc với thơ và nhạc chen vào giữa các câu vọng cổ, chia ra câu 1 đi liền với câu 2, rồi tiếp đến câu 5 liền với câu 6 vọng cổ. Khác với nguyên thủy bản gốc vọng cổ gồm có 6 câu, nhưng khi chuyển tác sang Tân cổ giao duyên thì bớt đi câu 3 và câu 4. Nguyên tác của nó là bài “Dạ cổ hoài lang” của Cao văn Lầu, một thời gian sau ông đổi tên thành bài “Vọng cổ hoài lang” với ca từ sau đây:“Từ là từ phu tướng
Bảo kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Đêm năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Ôi! Gan vàng quặn đau
Đường dầu xa ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Về đêm luống trông tin bạn
Ngày mòn mỏi như đá vọng phu
Vọng phu vọng, luống trông tin chàng
Lòng xin chớ phụ phàng
Chàng hỡi, chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Biết bao thuở đó đây xum vầy
Duyên sắt cầm đừng lạt phai
Thiếp cũng nguyện cho chàng.
Nguyện cho chàng hai chữ bình an
Mau trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi.”
Theo thời gian, bài Vọng cổ Hoài Lang được chế tác thành 6 câu vọng cổ, mỗi câu có một cấu trúc khác nhau. Như câu 1 vọng cổ có cấu hình là hò 1, hò 2 rồi XÊ 24, SANG 28, CỐNG 32 thì câu 2 vọng cổ tiếp theo, sau hò 1 hò 2 là XÊ 24, rồi XÊ 28, SANG 32. Và 4 câu kế tiếp theo là sự trao đổi vị trí của HÒ, XÊ, SANG, CỐNG, XÊ, SANG. Gối đầu bài vọng cổ có thể là bài thơ hay một bài bản nhỏ cổ nhạc.
Nhìn vào bản in bài Tân cổ giao duyên “Thương về mùa Đông biên giới” của soạn giả Đông Phương Tử, một bút danh của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, trình bày dưới đây, người đọc thấy những hàng chữ dẫn giải phương cách trình tấu giữa hai ban tân và cổ nhạc cũng như cách ca sĩ bắt nhịp vào hát trong một bài Tân cổ giao duyên của thời đại mới. Thuật ngữ âm nhạc truyền thống và thời đại được dùng trong trường hợp này như: Ban cổ nhạc chơi dây Đào hò 5, còn ban Tân nhạc trổi “ton” Ré mineur, cho ta thấy có danh từ xưa đi liền với từ mới thời nay. Hoặc giả trong phần hướng dẫn trình tấu nhạc, soạn giả Đông Phương Tử đã tỉ mỉ ghi trong bài ca như cầm tay chỉ việc: “ Khi dứt Xề 32, Ban cổ nhạc chầu tiếp thêm 4 nhịp rồi chuyển giao cho Ban tân nhạc đệm thêm một nhịp nữa, khi ấy ca sĩ mới bắt vào nhịp thứ 6 mà chữ “SANG” phải hát rớt đúng vào nhịp chánh này”. Khi hiểu được cấu trúc của một bài tân cổ giao duyên như thế nào thì sự thưởng thức sẽ mang lại cho ta thêm phần thú vị trong bài Tân cổ giao duyên Thương Về Mùa Đông Biên Giới sau đây.
Phan Anh Dũng
Ý kiến bạn đọc