Họa sĩ Hoài Nam, người của một thời văn nghệ Sài Gòn

Họa sĩ Hoài Nam, người của một thời văn nghệ Sài Gòn
Sau lần ghé Viện Dưỡng Lão Nghệ Sĩ cách đây mấy năm, tôi có dịp quay lại. Tuy mang tiếng phổ quát là nghệ sĩ nhưng chọn nơi đây làm mái nhà trú ngụ cuối đời hầu như chỉ là giới cải lương. Không thấy các nghệ sĩ từ thế giới của Ðiện Ảnh, Kịch, Tuồng... Có lẽ vì cơ sở này do bà Phùng Há đứng ra thành lập nên có sự ưu ái đặc biệt dành cho những người con của cải lương.
Tôi gặp ở đấy những gương mặt từng quen biết dịp trước; cô Lệ Thẩm từng là đào thương những ngày theo ghe bầu ruổi rong trên các miền sông nước, cô Bạch Yến mái tóc trắng xóa theo đuổi nghiệp cầm ca từ năm mười lăm ở gánh Kim Phụng của bầu Ðỗ Xuân Ứng... Ðã mất rồi ông Út Hậu chống gậy ngồi trên băng ghế gỗ dõi mắt ra ngoài khung cửa những phương trời quen thuộc đã trở nên xa xăm...
Có lần nhà thơ Sa Giang nhắc tới tên một người bạn thân là họa sĩ Hoài Nam. Hai người cùng học chung khóa I trường Quốc Gia Âm Nhạc. Những người bạn cùng khóa, cùng trường năm ấy với ông Hoài Nam đều nổi danh hoặc có địa vị trên những lãnh vực khác nhau. Nhà thơ Sa Giang và họa sĩ Hoài Nam là bạn từ thủa học sinh nên thân lắm, nhiều lúc ở cùng nhà, ăn cùng mâm, hợp tính tình vì cùng giới giang hồ phiêu lãng. Nhà thơ dặn khi nào sang Viện Dưỡng Lão cho ông nhắn lời hỏi thăm họa sĩ Hoài Nam. Tôi ngạc nhiên tìm hỏi ngay người họa sĩ mà nhiều lần sang Viện Dưỡng Lão tôi chưa từng gặp mặt cũng không nghe ai nhắc đến tên.
Quả tôi thường gặp cô Lệ Thẩm ngồi xõa tóc trên ghế đá, soạn giả Thành Phát ra vào nhà, cô Bê nhạc sĩ lên xuống cầu thang... nhưng tôi không gặp ai có tên là họa sĩ Hoài Nam cả.        
Tôi hỏi thăm họa sĩ Hoài Nam, kêu cả điện thoại vài lần nhưng chẳng bao giờ gặp ông. Là người đầu tiên sống ở đó, chỗ ở chính là Viện Dưỡng Lão nhưng ông vẫn thường xuyên đi chơi, nay Nha Trang, mai Phan Thiết, mốt Cần Thơ... Ði hoài, ít ở nhà, mọi người quen sự vắng mặt của ông tới mức ông có ra ngoài đầu hẻm uống cà phê thì trong viện cũng trả lời khách ông đã đi chơi xa, đi đâu đó một tuần hay một tháng... không biết đi đâu và cũng chẳng biết khi nào quay về.
Tôi quên bẵng mất việc này cho đến một hôm, mới sáng sớm đã nhận được điện thoại của ông hỏi đường đến nhà tôi. Ông không muốn gặp tôi bên viện vì đang ở nhà một người quen gần đây. Vả khi ấy cầu chữ Y đã bị tháo dỡ, lối đi bây giờ qua đó vòng vèo khó đi vì xa và thường tắc xe. Lần đầu tiên tôi gặp ông. Một ông già ngoài tám mươi, tóc bạc phơ, chòm râu phơ phất, gầy nhom như một ông tiên, tứ thời khoác áo gió bất kể thời tiết nóng lạnh, chiếc dù khoác trên vai vừa che mưa nắng khi cần, vừa là chiếc gậy chống chở thân hình gió bay của ông, cổ tay trái đeo một chiếc vòng gỗ, tay phải ôm chiếc túi màu đen mà thỉnh thoảng ông cứ loay hoay lục lọi trong đó tìm một chiếc bình nhôm lạ mắt, mở nắp dốc lên tu một hơi như tu rượu.
Giống như nốc cạn từng hớp rượu đời người chứ thực ra đó là thuốc trợ tim, cứ chốc lát ông phải chiêu một ngụm để có thể tiếp tục nói chuyện. Hơi sức không còn bao nhưng máu giang hồ vẫn cuồn cuộn trong người. Ông không thể ở yên một chỗ mà cứ luôn xê dịch. Những chuyến đi xa đến các tỉnh miền Tây, miền Trung, những cuốc xe di chuyển liên tục trong thành phố. Ông không đi xe ôm mà thường có người xung phong chở ông đi ruổi rong khắp chốn. Một giáo viên dạy Anh văn, một thanh niên hàng xóm sống gần cạnh Viện Dưỡng Lão... Họ chở ông đi khắp nơi ông muốn, săn sóc ông, kiên nhẫn ngồi đợi ông hàng giờ, thích thú lắng nghe những câu chuyện không bao giờ dứt của một ông già sống nhiều, đi nhiều, trải nhiều.
Ông quê Long An nhưng sinh ở Battambang, Lào. Cha làm nghề cầu đường thường phải theo công trình di chuyển. Không biết có phải vì thế mà ông quen với việc nay đây mai đó.
Mới đầu tôi ngạc nhiên khi biết ở Quốc Gia Âm Nhạc, ông học tiêu, sáo, đàn tranh, đàn nguyệt, thụ giáo tỳ bà Nguyễn Hữu Ba, kiêm cả ca Bắc... trong khi thường được mọi người gọi là họa sĩ. Té ra ông đã học trường Mỹ Thuật Thực Hành từ năm 1947, đến năm 1954, khi các trường ở miền Bắc theo làn sóng di cư vào Nam, ông tiếp tục theo trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật cùng lúc với trường Nhạc. Duyên đưa đẩy khiến ở trường Mỹ Thuật, ông học chung với cháu ông Năm Châu, chơi với con ông Năm Châu và thế là sau đó gia nhập đoàn kịch Năm Châu để vẽ phông sân khấu cho đoàn này.
Kịch Năm Châu chỉ diễn ở Sài Gòn nên sau đó ông nhảy qua lãnh vực cải lương để có thể theo các đoàn hát đi lưu diễn khắp nơi thỏa chí giang hồ. Lúc bấy giờ giới sân khấu có ba họa sĩ qua trường lớp bài bản là ông Siêu, ông Quyền và Hoài Nam. Sân khấu cũ rất đơn giản, chỉ cần bốn loại phông cho cảnh giàu, nghèo, cung vua và rừng rú là đáp ứng cho mọi tình huống của kịch bản. Họa sĩ Hoài Nam đã phá lệ cũ, mở cuộc thay đổi hoàn toàn mới cho sân khấu.
Thành công nhất của ông bắt đầu từ đoàn Thủ Ðô khi ông vẽ mẫu hoàn chỉnh xong mới giao cho thợ làm phông, từ đó mở ra một sân khấu lộng lẫy với nhiều phông cảnh phong phú, đẹp đẽ khiến khán giả vô cùng thích thú. Cải cách này nổi đình, nổi đám mạnh mẽ khiến ông trở nên lừng danh trong giới cải lương. Các gánh hát xưa theo ghe bầu nên phông cảnh phải hết sức gọn gàng, đơn giản để dễ chất đống. Về sau di chuyển bằng xe tải nên loại cảnh có góc cạnh đàng hoàng, có hoa viên, phòng ốc... của ông dễ dàng được chuyên chở theo.
Không ngừng ở việc vẽ phông cho sân khấu, ông mở rộng hoạt động qua lãnh vực sân khấu. Các bộ phim “Lan và Ðiệp”, “Trần Thị Diễm Châu”... do Lê Dân đạo diễn, “Xa Lộ Không Ðèn” của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn... không thể kể hết các bộ phim do ông dựng cảnh. Ngoài ra ông còn “mi” cho một số báo và viết bình luận Kim Dung rất ăn khách.
Nghe ông thuật triền miên về các công việc cứ nối tiếp nhau mãi không dừng. Tôi thắc mắc về chuyện tình của ông.
Họa sĩ Hoài Nam bật cười khà khà rung cả chòm râu trắng như cước:
“Chú rời gia đình từ nhỏ, cuộc sống rày đây mai đó không chút vững chãi, làm sao vướng bận vợ con, sao nỡ làm khổ người đàn bà nào dám làm vợ chú. Ông cười dí dỏm. Nhưng điều đó không có nghĩa cuộc đời của chú vắng bóng đàn bà. Quá đông phụ nữ là khác, phụ nữ nhiều đếm không xuể...
Ðúng vậy, phụ nữ xuất hiện trong đời họa sĩ Hoài Nam nhiều vô hạn, nhưng không phải trong thực tế. Ông sợ làm họ buồn, sợ trách nhiệm ràng buộc bước chân tang bồng nên không dám buông thả vào những mối tình, ông trốn tránh tình cảm trước những phụ nữ bằng xương bằng thịt trước mặt để thả hồn vào người đẹp trên mặt giấy.
Ðó là các người đẹp trên bìa sách. Ông là người đầu tiên vẽ bìa in offset bốn mu trên tạp chí Sân Khấu, ông cộng tác với Dương Hà, Phú Ðức, Bút Trà... Ða số tiểu thuyết bấy giờ đều do ông trình bày bìa. Những hình dáng phụ nữ của ông giống như họa sĩ Lê Minh thật hấp dẫn lúc bấy giờ. Gần như độc quyền, ông vẽ miệt mài không kịp đơn đặt hàng để làm mưa làm gió trong lãnh vực ấy nhiều năm dài.
Dù sao, vốn bản tính phiêu bạt, ông không quan trọng bất cứ điều gì. Sự nghiệp, danh vọng... đối với ông chỉ là mây nổi. Vốn là người cao cờ nhưng hồ như ông không thắng một cuộc cờ nào. Ván cờ gần tàn, ông tự lùi bước chịu thua để nhường niềm vui thắng cuộc cho địch thủ, để lấy niềm vui của người làm niềm vui của mình...
Họa sĩ Hoài Nam quay lại gặp tôi. Không vướng mắc vợ con, gia đình, tưởng chừng thoát khỏi mọi gánh vác đa mang trên cõi đời thì bỗng nhiên ông đến để trao tôi giữ sáu tập thơ mỏng và nhất là bản thảo cuốn “Giải Mã Hán Việt Nôm” theo phương pháp họa tự. Học chương trình Pháp nhưng lại có vốn Hán tự thu nhận từ gia đình nên ông nắm khá vững loại chữ này.
Ðó là công việc nghiêm túc lúc cuối đời, tác phẩm mà ông bỏ nhiều công sức trong suốt gần bốn mươi năm để soạn hết lòng mong ngóng đứa con tinh thần được ra mắt độc giả. Một người Tàu trong Chợ Lớn từng muốn dịch sang chữ Hoa để in nhưng ông từ chối. Ông muốn dành tác phẩm này cho độc giả Việt Nam trước.
Tôi không biết số phận cuốn bản thảo như thế nào. Sẽ may mắn ra đời chăng, sẽ đến với cuộc sống ra sao. Tôi trầm ngâm nhìn người họa sĩ già trước mặt. Một đời sống gần hết, một đời gần qua. Tôi mở từng trang cuốn sách tự hỏi tác phẩm tâm huyết có như tác giả chỉ một đời ghé qua rong chơi rồi lui bước, chỉ rồi như cát bụi thời gian có phủ che?

Nguyễn Thị Hàm Anh

Nguồn tin: NV