\n
20:21 EDT Thứ năm, 28/03/2024
hình music online

Tin mới nhất

Đăng Nhập - Đăng Ký

qua tang

> KHÓI LỬA BIÊN THÙY 1 - 07/05/2019 10:32
Chúc vui Xem thêm
Yêu cầu: Trần Minh Thương
Người nhận: Minh Thương

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 79

Máy chủ tìm kiếm : 8

Khách viếng thăm : 71


Hôm nayHôm nay : 14210

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 362243

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 12161922

Trang nhất » Tin Tức » Tin tức

Tổng quan về âm nhạc cổ truyền Việt Nam

Đăng lúc: Thứ hai - 11/08/2014 19:05 - Đã xem: 3564
Tổng quan về âm nhạc cổ truyền Việt Nam

Tổng quan về âm nhạc cổ truyền Việt Nam

Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc mới.

Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc? Có những bài ca như Vọng cổ, Tứ Đại Oán, vàrất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có phải là cổ nhạc hay tân nhạc, vìcác bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ 20 trở đi? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo quan niệm, nhận xét của người nghiên cứu.

Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử âm nhạc thế giới, thì giai đoạn âm nhạc cận đại của nhạc ngữ Tây phương bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19. Do đó, ranh giới định rõ cổ và tân nhạc rất là lu mờ.

Để tránh mọi ngộ nhận phức tạp, chúng ta tạm gọi như sau. "Cổ nhạc" là loại nhạc được lưu truyền từ ngàn xưa đến nay theo phương pháp truyền khẩu, dính liền vào đời sống hàng ngày của người dân quê hay thị thành hoàn toàn tiêm nhiễm văn hóa Đông Phương. "Tân nhạc" dùng để chỉ loại nhạc được các nhạc khí Tây Phương trình bày như nhạc phòng trà, nhạc được sáng tác theo phương pháp Tây Phương.

Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa "Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc". Chúng tôi thường nghe người mình nói với nhau khi đi xem đại nhạc hội do các hội tổ chức cho người Việt hải ngoại xem : "Chà! kỳ này hát toàn tân nhạc không, còn cổ nhạc sao không thấy đâu hết !", mặc dù trong chương trình buổi đó có nhiều tiết mục dân ca, hát bội, vv ...Ä Đa số người Việt hải ngoại chỉ biết có "Vọng cổ" mà thôi và chỉ thích nghe một bài Vọng cổ, chứ ngoài ra không để ý đến những bài khác dùng trong hát cải lương. Những người đặt tuồng lại không thấu triệt vốn liếng cổ nhạc nên số bài bản được sử dụng trong các tuồng cải lương ngày nay ở hải ngoại rất bị giới hạn, và số nghệ sĩ cải lương chỉ ráng học 6 câu xuống cho thật mùi là ăn tiền, chứ không cần học hỏi thêm bài bản như các nghệ sĩ tiền bối của giai đoạn 1940.

Với mục đích trình bày cùng độc giả một kho tàng phong phú của nền cổ nhạc Việt Nam, và một số vốn đáng kể về bài bản trong hát cải lương, cũng như sự hình thành về sự phát triển của bài ca Vọng cổ, chúng tôi tạm chia bài tiểu luận này làm ba phần:

- Vọng cổ là gì?

- Cải lương là gì?

- Cổ nhạc là gì?

VỌNG CỔ LÀ GÌ?

Ai sáng tác bài "Vọng cổ"? Theo đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam, ông Sáu Lầu (tên thật là Cao Văn Lầu), người gốc gác tỉnh Bạc Liêu, nhân nghe trống điểm văng vẳng từ một chòi canh gần thôn xóm nhà, thấy tâm hồn xúc động mà nẩy ra ý nhạc viết thành bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghĩa là nghe trống canh khuya nhớ chồng). Ông Sáu Lầu, sau khi chung sống với vợ 8 năm mà không có một mụn con, ba má của ông mới bắt ông phải kiếm một người vợ khác để hy vọng có con nối dõi tông đường. Vào nă m 1920 ông Sáu Lầu mới dùng cây đờn cò để sáng tác bài "Hoài Lang" (nhớ tới người yêu của mình". Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài này cho ông Tần Xuân Thơ (gọi là Thống, thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở Bạc Liêu) nghe. Chính ông Tần Xuân Thơ viết lời cho bài "Hoài Lang" được sửa lại là "Dạ Cổ hoài lang", nhịp hai. Khi hát cải lương thành hình trong thập niên 20, bài "Dạ Cổ hoài lang" được các ông thầy tuồng đưa vào các vở cải lương và dần dần thay thế bản Tứ đại oán.

Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa. Vợ chồng ông Sáu Lầu được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con. Ông Tần Xuân Thơ mới đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng cổ" (tức nhớ chuyện dĩ vãng).

Khoảng năm 1925-27, bài "Dạ Cổ hoài lang" được phổ biến rộng rãi trong giới cải lương. Nhịp hai không đủ chỗ để viết lời cho nên bài "Vọng cổ" được tăng lên thành nhịp 4. Bài "Tiếng nhạn kêu sương" của ông Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung) có thể là bài đầu tiên viết theo bản "Dạ Cổ hoài lang nhịp tư".

Thầy Giác là người khởi xướng bài "Dạ Cổ hoài lang nhịp 8 " vào khoảng nă m 1929-1930. Nhưng phải đợi tới năm 1935-37 nghệ sĩ Năm Nghĩa chính thức phổ biến trong giới yêu cải lương qua bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa".

Bài "Vọng cổ nhịp 16" được chính thức thành hình vào năm 1938 qua tiếng đờn của nhạc sĩ Bảy Hàm với tiếng hát của cô Tư Sạng trong bài "Tình Mẫu Tử". Nhưng phải đợi vài năm sau (sau thế chiế n thứ 2) với tiếng hát điêu luyện của nghệ sĩ Út Trà Ôn trong bài "Tôn Tẩn Giả Điên", bài "Vọng cổ nhịp 16" mới được phổ biến rộng rãi hơn.

Từ năm 1954 trở đi, bản "Vọng cổ nhịp 32" xuất hiện qua các dĩa há t do các hãng dĩa Asia, Hồng Hoa, Lam Sơn, Hoành Sơn xuất bản. Bài "Đội Gạo Đường Xa" của Kiên Giang do nghệ sĩ Hữu Phước hát được kể là tiêu biểu nhứt.

Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu mới đưa tân nhạc vào tạo thành loại hát "tân cổ giao duyên". Cách đưa tân nhạc vô bài Vọng cổ bắt buộc phải rút ngắn bản Vọng cổ làm bài Vọng cổ 6 câu còn lại 4 câu thôi.

Vềsau có người đưa bài Vọng cổ lên thành Vọng cổ nhịp 64 và Vọng cổ nhịp 128 nhưng không thành công. Cho nên tới hôm nay, sau gần 50 năm bản Vọng cổ nhịp 32 vẫn còn "ăn khách" và được phổ biến mạnh mẽ.

Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta được thấy một bài nhạc biến chuyển và phổ biến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trong lòng của đại đa số người Việt trong cũng như ngoài nước. Tuy là một bài buồn nghe muốn "đứt ruột, nhức xương ", làm cho người xa nhà, nhớ quê hương, mà cũng có thể làm cho người lính hy sinh tánh mạng nơi chiến trường để giữ vững bờ cõi, hay nung nấu lòng phục quốc của người di tản hiện nay. Thường thì bài buồn dùng âm điệu buồn, bài vui dùng âm điệu vui như chúng ta biết trong cách sử dụng viết nhạc. Đây là một trường hợp ngoại lệ, mà nếu có dịp, tôi sẽ phân tích tường tận hơn.

Vọng cổ chỉ là một bài trong phần nhạc cải lương. Biết hát vọng cổ chưa có thể nói là biết hát cổ nhạc, biết hát cải lương. Hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng hay loại nhạc "xa-long" (tiếng Pháp là "Salon") hoàn toàn khác với hát vọng cổ trong cải lương. Người hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng cố gắng hát cho thật hay trong cách ngân nga, luồng giọng cho ngọt, nhịp nhàng cho chắc. Người đệm đàn cho bài vọng cổ trong loại nhạc thính phòng chỉ cần giữ nhịp cho chắc, và có thể nhấn vuốt tùy theo tài nghệ của người đánh đờn. Hát vọng cổ trong cải lương có khi chỉ hát hai câu, 4 câu, hoặc 5 câu, ít khi hát 6 câu từ đầu đến cuối. Sự khác biệt giữa hai cách hát rất quan trọng. Có người chỉ biết hát hoặc hoặc đờn vọng cổ cho loại nhạc thính phòng mà không thể hát hay đờn vọng cổ cho hát cải lương.

CẢI LƯƠNG LÀ GÌ?

Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vìcải lương, sau trên 80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn lãnh thổ sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những gìmàchúng ta không thể nói được.

Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển "Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương", tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không chắc chắn ngày khai sanh của bộ môn hát mới này. Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập hát cải lương vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được mở mắt chào đời vào năm 1916. Vì không có tài liệu viết trên giấy trắng mực đen, nên không thể khẳng định ngày giờ chắc chắn của sự xuất hiện của cải lương.

Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức ca tài tử tại tư gia khoảng năm 1915. Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết. Lúc đó đã có thấy xuất bản một quyển "Bản đờn tranh và bài ca" do Phụng Hoàng Sang soạn, và Đinh Thái Sơn xuất bản, Saigon, in lần thứ ba, năm 1907. Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng 1900. Qua quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những bài sau đây : "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn", " Bát Man Tấn Cống", "Tứ Đại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân", "Nam Ai", "Tứ Đại Cảnh". Có người cho rằng ông thầy Ký Trần Quang Quờn đã sáng tác bài "Tứ Đại Oán" và "Văn Thiên Tường". Điều chắc chắn là ông Trần Quang Quờn đã sáng chế nhiều cây đờn như cây đại ba tiêu, tiểu ba tiêu, cây song thương màngày nay không thấy được phổ biến. Có thể nói đây là giai đoạn tượng hình thai nghén của hát cải lương.

Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là "Ca ra bộ". Bài hát điển hình nhất làbài "Tứ đại oán " (Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười Hai. Tại Vĩnh Long, chúng ta có thể nghĩ là nơi phát xuất của hát "ca ra bô", giai đoạn phôi thai của hát cải lương. Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ danh Tống Hữu Định, ông Trần Quang Quờn, ông Phạm Đăng Đàng là một danh cầm đất Vãng là những người đóng góp đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau này.

Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert Sarrault, dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên một số chủ bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Đốc Phủ Bảy, Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng, vv ...) bè n chia nhau các vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống Đức. Do sự cải tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát bộ" nghĩa là hát ra bộ qua vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon ngày 16 tháng 11, 1918.

Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Định, ở Sa Đéc có gánh xiệc pha ca ra bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười Vui, ở Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của Vương Văn Có), vv ...

Suy đi nghĩ lại, điểm mà ai cũng đồng ý là hát cải lương bắt nguồn từ hát bội. Lúc ban sơ, các tuồng hát đều dựa theo tuồng cổ của hát bội như "Trảm Trịnh Ân", "Ngưu Cao tảo mộ", "Thoại Khanh Châu Tuấn". Ở hát bội, câu ca không cần bị gòbó theo nhạc đàn, tuy rằng căn bản phải gìn giữ đúng với âm điệu, do đó diễn viên được tự do sáng tạo, được phát huy sở trường, câu hát cao hay thấp, mau hay chậm, ngân nga hay kéo dài không bị giới hạn, chỉ cần phải hòa với nhạc đàn ở những nhịp chính là được. Còn trong cải lương, câu ca phải đúng với điệu đàn, phải hợp với giai điệu và tiết tấu. Để tránh những cử chỉ tượng trưng quá nhiều và hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát cải lương với những bài ca mùi mẫng, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với những tuồng gần với xã hội Việt Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường ngày, với những động tác tự nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu. Về âm nhạc thì bỏ những lối hát nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường, tán, chỉ giữ và phát triển thêm lối nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài tử. Số vốn ca nhạc của sân khấu cải lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong phú. Về điệu "Lý ", có "Lý Ngựa Ô", "Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý Chuồn Chuồn". Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán . Có ba bài Nam : "Nam Xuân", "Nam Ai " và "Nam Đảo", bốn bài oán như "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như "Văn Thiên Tường", "Bình Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Đề Quyên". Ngoài ra những cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi Vắn", "Khổng Minh Tọa Lầu", "Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội". Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản". Bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ", "Long Đăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc ". Đó là chưa kể 8 bài ngắn khác dùng trong nhiều trường hợp vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê ", "Chiêu Quân", "Trường Tương Tư", "Đường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên Kỳ ngộ", "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10 Liên Hoàn (Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẫu Mã).

Giai đoạn tiên khởi của cải lương bắt đầu bằng gánh hát của thầy André Thận vào năm 1917. Đến năm 1918, gánh André Thận rã, thầy Nă m Tú ở Mỹ Tho mới gom góp các tài tử của André Thận lập nên gánh Thầy Năm Tú, sắm thêm y phục, tranh cảnh, và có Trương Duy Toản là thày soạn tuồng đàng hoàng.

Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván gõ, và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ. Thầy Năm Tú có công trong việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt Nam qua các dĩa hát 78 vòng mà những người từ bát tuần trở lên đều nhớ mỗi khi nghe dĩa hát bát đầu bằng cầu "Đây là bạn hát cải lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, hát cho dĩa Pathé Phono nghe chơi"

Từ đó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm. Nào gánh Tập Ích Ban, gánh Tân Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương, gánh Trần Đắc, gánh Huỳnh Kỳ, gánh Phụng Hảo, vv ... đã tạo cho sân khấu cải lương một nền móng vững chắc. Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam ở Saigon) như các bà Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa Đéc, Thanh Tùng, Kim Thoa, và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Nghĩa, Tám Danh, Ba Du, vv… đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ khai đến chỗ toàn hảo.

Từ năm 1938 đến năm 1945, nhóm Kim Thoa của Tư Chơi và gánh Kim Chung tìm cách pha nhạc Tây vào câu ca bài bản cổ Việt.

Đến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng cũ ra diễn lại mà thôi.

Từ năm 1950 trở về sau, cải lương lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ, đánh chưởng, vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra loại tân cổ giao duyên.

Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử, tuồng chiến (gánh hát của Bảy Cao), tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng chưởng, tuồng hồ quãng, vv...

Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần năm 2001), Thành Được (hiện sống ở San Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon, Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống ở California, Hoa Kỳ), vv ... về phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon), Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết (hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh Thanh Hoa (Saigon), Ngọc Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vv ... về phía nữa.

Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Đước (gánh Tân Đồng Ban, từ trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân Hí, Mộng Vân, Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững, Hề Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh,vv ...là những người đã đem sức đem hơi ra chọc được tiếng cười dòn tan của khán giả. Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia thế giới.

Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí Tâm (hiện sống ở Hoa Kỳ), Vương Kiệt, Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ), Phượng Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vv ... nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các bậc tiền bối.

Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm. Ngày nay số gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam, trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải lương tỵn nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh.

CỔ NHẠC LÀ GÌ?

Cổ nhạc, nói chung, bao gồm nhiều loại nhạc khác nhau: nhạc cung đình, nhạc tôn giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng (hát bội, chèo, cải lương), nhạc dân gian từ bài hát ru con, các loại đối ca, đến loại hò đưa linh. Nói một cách khác, cổ nhạc là nhạc của người dân Việt từ thời lập quốc đến giai đoạn hiện đại do người Việt sáng tác theo truyền thống truyền khẩu. Trong phạm vi bài này, tôi không thể tạm gác một bên các loại nhạc đồng bào thiểu số vì không thể kê khai nhạc của 54 sắc tộc sống trên xứ Việt ngư người Thái, Mông, Mường, Mán, Thổ, Tày, Dao, Ra-đê, Ba-na, Mnong, Sê Đăng, Ê Đê, Chàm, vv...

Nhạc cung đình được Lương Đăng phỏng theo nhạc cung đình nhà Minh bên Trung quốc vào thế kỷ thứ 15. Đến thời nhà Nguyễn (1802-1945), nhạc cung đình gồm các loại : Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường Triều nhạc, Cứu Nhựt nguyệt giao trùng nhạc, cung trung chi nhạc, Yến nhạc, văn nhạc, võ nhạc do nhiều dàn nhạc như đại nhạc, tiểu nhạc với số nhạc công rất đông. Đó là chưa kể một số điệu vũ như văn vũ, võ vũ, tứ linh vũ, hoa đăng vũ, bát man tấn cống vũ, vv …

Nhạc tôn giáo gồm có nhạc Khổng giáo bây giờ không cò n nữa (chỉ còn nghe tại Đài Loan và Đại Hàn mà thôi ), nhạc Phật Giáo rất phong phú với các điệu niệm, tán, tụng đầy nhạc tính, nhạc Cao Đài đặc biệt miền Nam trên điệu Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Oán), và tất cả các loại nhạc dính liền với các tế lễ như chầu văn, hầu văn, rỗi bóng, lên đồng, nhạc đám ma.

Nhạc thính phòng (tạm gọi là thính phòng theo nghĩa Tây phương), là một bộ môn rất được ưa chuộng tại Việt Nam. Có ba loại nhạc thính phòng đặc thù của ba miền : miền Bắc có "Hát Ả Đào", miền Trung có "Ca Huế ", và miền Nam có "Đàn Tài Tử ". Hát ả đào còn gọi là "Ca Trù ", "Hát Cô Đầu" không còn được thịnh hành tại miền Bắc vì không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại mặc dù đã được chấn hưng từ 20 năm nay. " Ca Huế ", với các bài Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh, 10 bài ngự vẫn còn được ưa thích. "Đàn Tài Tử " được bành trướng mạnh mẽ tại miền Nam với các đại hội liên hoan được tổ chức tại các tỉnh miền Nam (Tân An, Mỹ Tho, Bạc Liêu). Chính "Đàn Tài Tử " đã đóng góp rất nhiều cho sự hình thành nhạc hát cải lương.

Nhạc dân gian Việt Nam rất giàu. Miền Bắc có biết bao nhiêu dân ca đã làm sống lại những nét đẹp của phong cảnh, của phong tục nghìn xưa như loại hát quan họ Bắc Ninh với phong tục kết bạn, ngủ bọn (liền anh, liền chị), hát thi hát lấy giải; rồi hát trống quân, hát giậm, hát phường vải, hát ví, hát xoan, cò lả, hội sim. Ngoài ra còn có hát xẩm. Miền Trung có hò sông Mã, hò mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hò hụi, hò nện, các điệu lý như lý mười thương, lý con sáo, lý giao duyên. Trong Nam những điệu hò thay đổi từng miền, từng vùng như Hò Đồng Tháp, hò Bạc Liêu, hò Bến Tre, hò lơ, hay các điệu lý như Lý Ngựa Ô, lý chuồn chuồn, lý con khỉ Đột, lý dĩa bánh bò, lý che hường, vv ... Hầu hết các điệu lý, hò, đối ca đều dựa trên thể thơ lục bát rất đặc biệt Việt Nam. Dân ca Việt Nam, nhờ vào những cuộc hát thi lấy giải và óc sáng tạo nhạy bén mà ngày nay có trên mấy ngàn bài được phổ biến khắp nơi.

Tôi hy vọng rằng, qua bài tiểu luận này, quý bạn đọc sẽ có một khái niệm đại cương về thế nào là "Vọng cổ", thế nào là "Cải lương", thế nào là "Cổ nhạc". Biết được nguồn gốc nhạc Việt là một điều cần thiết nhứt là cho kiến thức văn hóa cho mỗi người trong chúng ta lúc phải bị lìa xa quê hương. Hiểu được nhạc mình, biết qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và Việt để đừng bị mất gốc mất rể và có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau. Tự hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc Việt, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc để xứng đáng là con cháu dòng dõi Lạc Hồng.

Theo TRANQUANGHAI.INFO

Dẫn theo: http://www.reds.vn/index.php/nghe-thuat/am-nhac/1037-tong-quan-ve-am-nhac-co-truyen-viet-nam

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

CHUYỂN ĐẾN WEBSITE...

QUY DUY TRI TRANG WEB

Share mạng xã hội

Tin ngẫu nhiên

Sân khấu thiếu vở diễn mang hơi thở thời đại?

Giải thưởng năm 2023 của Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam đã không tìm được giải A ở cả vở diễn sân khấu và kịch bản văn học

 

Huy Khánh run vì cảnh nóng với bạn diễn kém 21 tuổi, phủ nhận đổ vỡ hôn nhân

Huy Khánh nói run khi được giao đóng cảnh nóng với diễn viên gọi mình là 'chú'. Anh từng tránh nhiều cảnh nhạy cảm vì muốn giữ hình ảnh với gia đình.

 

Thù lao diễn viên xiếc vẫn 200.000 đồng/buổi, NSND Phi Vũ chạnh lòng

So với các ngành nghề khác, nghệ sĩ xiếc vẫn đang chịu sự bất cập do chịu sự chi phối của quy định, tiền bồi dưỡng cho nghệ sĩ, diễn viên xiếc không vượt quá 200.000 đồng là điều khiến NSND Phi Vũ chạnh lòng.

 

Vì sao NSƯT Trinh Trinh có duyên với vai Bùi Thị Xuân

Trong vở kịch sử Việt "Tình sử Thăng Long" vừa diễn tại Nhà hát Bến Thành, NSƯT Trinh Trinh đã có những lớp diễn đầy cảm xúc với vai Bùi Thị Xuân. Cô tâm sự đó là duyên số gắn kết cô với nhân vật lịch sử này.

 

NSƯT Tú Sương, Trinh Trinh tạo điểm nhấn nổi bật cho vở "Xuân về trên đất Thăng Long"

Giữa những sàn diễn sáng đèn với vở tuồng dựa theo lịch sử Trung Quốc, thì Đồng Ấu Bạch Long dưới sự đầu tư của ông bầu Huỳnh Anh Tuấn đã ra mắt vở sử Việt "Xuân về trên đất Thăng Long" tại Nhà hát Nụ cười (Cung Văn hóa Lao động TP HCM).

 

Tiến sĩ cải lương đầu tiên của VN: U80 mỗi ngày vẫn dành 4 tiếng học ngoại ngữ

Tiến sĩ cải lương đầu tiên của Việt Nam - Bạch Tuyết từng 3 lần tự tìm đến cái chết, sau khi kết thúc 2 cuộc hôn nhân, bà lựa chọn cuộc sống "độc thân vui vẻ".

 

Lệ Thủy, Tú Trinh, Công Ninh yêu bếp cơm chay "Lòng tốt quanh ta"

Các nghệ sĩ tham gia ca cảnh "Lòng tốt quanh ta" đã hẹn một ngày không xa sẽ đến thăm bếp cơm chay 0 đồng của cụ Hồng, cụ My.

 

Nghệ sĩ Ngân Tuấn nâng đỡ con trai cố NSƯT Chiêu Hùng nối nghiệp cha

"Ngũ hổ tướng" của sân khấu cải lương tuồng cổ gồm: Ngân Tuấn, Khánh Tuấn, Chiêu Hùng, Trọng Nghĩa và Chí Linh. Trong số này, chỉ có con trai của cố NSƯT Chiêu Hùng là theo nghề diễn viên.

 

Vì sao Anh Thư từng ngừng diễn xuất?

Mỹ nhân màn ảnh, siêu mẫu Anh Thư tái xuất màn ảnh nhỏ với vai cùng tên trong phim "Hoa vương". Vai diễn mang về cho cô tình yêu thương của khán giả, giúp cô vào tốp 5 vòng bầu chọn Giải Mai Vàng lần thứ 29-2023.

 

30 năm ngọt bùi cùng Bông Lúa Vàng

Bông Lúa Vàng là một giải thưởng danh giá trong làng nghệ thuật cải lương, đến nay đã được 30 năm hoạt động, tuyển chọn không biết bao nhiêu giọng ca hay, đẹp, lạ cho bộ môn cải lương.

 

Cuộc đời thăng trầm của danh ca Mộc Lan

Giữa thập niên năm 1950, tại Sài Gòn, danh ca Mộc Lan cùng với Kim Thước và Châu Hà đã tạo nên những giọng ca vang bóng một thời. Trong đó, nữ danh ca Mộc Lan được đánh giá là người tài sắc vẹn toàn, nhưng có cuộc đời chìm nổi, truân chuyên nhất.

 

Nghệ sĩ tuồng cổ Xuân Thu qua đời

Bà là con gái út của nghệ nhân Minh Tơ, em ruột của cố NSND Thanh Tòng. Tham gia đoàn đồng ấu Minh Tơ từ nhỏ, bà là cô đào đa dạng, diễn nhiều loại vai trên sân khấu tuồng cổ.

 

Đạo diễn Hoàng Nhật Nam: Nên rà soát để các cuộc thi hoa hậu uy tín, nghiêm túc

Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam ngày 22-12, đạo diễn Hoàng Nhật Nam chia sẻ rằng ông và các cộng sự ở Công ty Sen Vàng "lỗ tiền bạc nhưng lời văn hóa".

 

Đan Trường bất ngờ xuất hiện trong phim Tết 2024

Trailer mới nhất của Gặp lại chị bầu hé lộ sự góp mặt của ca sĩ Đan Trường; Khả Như không sợ bị so sánh với bạn diễn; Á quân Ca sĩ mặt nạ hát nhạc phim Yêu trước ngày cưới; Bùi Lan Hương tiếp tục có duyên với nhạc phim… là những tin tức điện ảnh mới nhất, nổi bật.

 

Bí quyết "trẻ mãi không già" của vợ nhạc sĩ Tô Chấn Phong - ca sĩ Khánh Hà

Dù đã bước vào độ tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng ca sĩ Khánh Hà, vợ nhạc sĩ Tô Chấn Phong, vẫn khiến khán giả "ngất ngây" bởi diện mạo trẻ hơn tuổi như "cải lão hoàn đồng".

 

Nhạc sĩ Đài Phương Trang nói về việc ca sĩ hát 'Người yêu cô đơn' sai lời

Tối 22.11, các nhạc sĩ gạo cội của làng nhạc Việt như Giao Tiên, Đài Phương Trang, Nguyễn Vũ, Bảo Thu và Mạnh Quỳnh cùng góp mặt trong buổi công bố đêm nhạc Tìm nhau trao yêu thương.