.
Soạn giả Nhị Kiều
thời còn trẻ. Hình của Soạn giả Nguyễn Phương. Nguyễn Phương nghĩ
là nên ghi danh bà soạn giả Nhị Kiều vào danh bạ những người lập thành tích kỷ
lục ở Việt Nam, mà có thể bà Nhị Kiều lập được cả kỷ lục trên thế giới nữa khi
bà Nhị Kiều sáng tác hơn trăm vở tuồng cải lương trong một thời gian bốn mươi
năm sống bằng nghề soạn giả.
Niềm say mê cải
lươngXuất thân từ một cô gái rất đẹp, quê ở tỉnh Bến Tre, vì mê
cải lương mà trở thành soạn giả. Đây là một trường hợp dặc biệt chớ không phải
bất cứ ai mê cải lương rồi cũng có thể trở thành soạn giả như trường hợp của
soạn giả Nhị Kiều.
Hồi năm 1954 – 1955, hòa bình lập lại sau chiến tranh
Việt Pháp, các đoàn hát hết sợ bị liệng lựu đạn hay bị bố ráp nên họ mở rộng địa
bàn hoạt động. Đoàn hát Việt Kịch Năm Châu xuống tỉnh Bến tre, hát ở cù lao
Minh, cù lao Bảo, qua các quận Ba Tri, Mõ Cày, Thạnh Phú, Khâu Băng… Một cô gái
đẹp của quận Mõ Cày theo chân đoàn hát, thường đêm xem hát vì cô ái mộ kép Tám
Vân, người đóng vai Duy Bạt trong tuồng Gió Ngược Chiều.
Nghệ sĩ Tám Vân
xúc động trước tình người đẹp ái mộ mình nên chàng bèn ký với nàng một hiệp ước
chung thân, nàng xách khăn gói theo chàng trên các nẻo đường lưu diễn. Cô gái đó
tên Nguyệt, và cô Nguyệt không phải chỉ muốn theo xem thần tượng nghệ thuật của
mình hát mà cô còn muốn thần tượng nghệ thuật đó phải ca, ngâm, diễn xuất những
tác phẩm của chính cô viết ra. Cô Nguyệt bèn học cách soạn tuồng, học cách viết
và ca cổ nhạc. Từ đó giới sân khấu cải lương mới nẩy sanh ra một soạn giả gái:
soạn giả Nhị Kiều.
Soạn giả Nhị Kiều tên là Quản Thị Minh Nguyệt, sanh
năm 1921, tại làng An Thạnh, huyện Mõ Cày, tỉnh Bến Tre. Chị viết tuồng lúc khởi
đầu thì ký tên Cô Nguyệt, rồi Hoàng Thị Nguyệt và sau cùng chị đổi bút danh là
soạn giả Nhị Kiều.
Tôi bị rất nhiều người ganh ghét và họ thường nói là
muốn gặp bà bầu Thơ, chủ gánh Thanh Minh Thanh Nga , phải qua “hai cái cầu.” Họ
nghĩ Nhị Kiều là hai cái cầu nhưng thực sự ý nghĩa của nó không phải
vậy.
Chị Nguyệt nói về tên soạn giả Nhị Kiều của chị như sau: “Tôi bị rất
nhiều người ganh ghét và họ thường nói là muốn gặp bà bầu Thơ, chủ gánh Thanh
Minh Thanh Nga , phải qua “hai cái cầu.” Họ nghĩ Nhị Kiều là hai cái cầu nhưng
thực sự ý nghĩa của nó không phải vậy.
Tôi có người chị ruột tên là Quản
Thị Trúc Mai (tức Hoàng Trúc Mai), giỏi làm thơ viết văn. Do đó tôi mượn một câu
thơ của Tào Tháo: “Đồng Tước Chung Thân Tỏa Nhị Kiều “tự đặt bút danh Nhị Kiều
để kỷ niệm gia đình tôi có hai người con gái theo nghiệp văn chương ”
.
Nghệ sĩ Tám Vân tên thật Lê Văn Tám, sanh năm 1924, quê quán ở quận Ba
Tri, tỉnh Bến Tre. Anh Tám Vân học trường Trung Học Mỹtho, học sau tôi một lớp.
Chúng tôi quen biết nhau khi cùng học chung trường. Đến năm 1955, Tám Vân và
Nguyễn Phương hợp soạn hai tuồng cải lương hát trên sân khấu Năm
Châu.
Đến năm 1960, Nguyễn Phương và Tám Vân cộng tác trong đoàn Thanh
Minh Thanh Nga của bà Bầu Thơ. Chúng tôi có dịp hợp soạn thêm cho đoàn hát Thanh
Minh Thanh Nga các tuồng: Đợi Ánh Bình Minh, Chiếc Lá Giữa Dòng, Phụng Kiều Lý
Đáng, Hoa Đồng Cỏ Nội, ký tên Nguyễn Phương và Cô Nguyệt.
Soạn
tuồng cải lươngThật ra thì trong lúc nầy chị Tám Vân chưa thực
sự hợp soạn tuồng mà chỉ là anh Tám Vân cùng viết với tôi và để tên hợp soạn là
Cô Nguyệt thay vì tên Vân Đệ như trong các tác phẩm hợp soạn trước của chúng
tôi.
Cũng cần nói rõ phương pháp hợp soạn tuồng của chúng tôi từ năm 1956
đến năm 1961, 62, 63… Nguyễn Phương dựng cốt chuyện, viết thành thoại kịch hoàn
chỉnh, anh Tám Vân lấy đối thoại viết sẳn trong thoại kịch đó viết lại thành bài
ca cổ nhạc. Khi kịch bản được đưa ra dàn dựng thì anh Tám Vân đứng ráp tuồng,
tập cho các nghệ sĩ ca và thoại ăn khớp với nhau.
Những vở tuồng Tàu hay
tuồng sử mặc y phục cổ trang thì anh Tám Vân đứng tập tuồng với sự góp ý của
Nguyễn Phương. Những tuồng xã hội thì Nguyễn Phương đứng tập tuồng, Tám Vân góp
ý điều chỉnh khi cần. Hợp soạn với anh Tám Vân, tôi có cái lợi là khi tôi viết
xong phần thoại kịch thì anh Tám Vân viết bài ca.
Gia đình Soạn giả
Nhị Kiều - Tám Vân. Hình của Soạn giả Nguyễn PhươngNên biết nghệ
thuật cải lương là gồm phần ca cổ nhạc và diễn xuất cùng với lời thoại, anh Tám
Vân là một diễn viên nên hợp tác với anh tôi được nhẹ lo phần cổ
nhạc.
Tôi kể rõ chi tiết nầy, chỉ là để nói lên tinh thần kiên trì đáng
quí của chị Nguyệt đối với nghệ thuật sân khấu cải lương. Trong thập niên 50,
nghệ sĩ sân khấu bị người đời gán cho là thành phần “xướng ca vô loại
“.
Phải là những người quá đam mê nghệ thuật sân khấu, chỉ thấy cuộc đời
là sân khấu và sân khấu là cuộc đời, bất chấp dư luận nghĩ sao, bất chấp những
điều tiếng trong thiên hạ thì mới có thể sống chết được với nghề hát cải lương.
Nam nghệ sĩ phải phấn đấu không ngừng để mong xóa tan đi thành kiến xướng ca vô
loại đó.
Một cô gái nhà lành như chị Nguyệt mà dám theo gánh hát, có
chồng là kép hát và phải sống như những nghệ sĩ lang thang không nhà thì chị
Nguyệt đúng là một người có đảm lược, có những sự suy nghĩ khác với người thường
và chị Nguyệt đúng là một người thật sự yêu mến nghệ thuật sân khấu cải
lương.
Chị Nguyệt lại đáng cho tôi khâm phục hơn là chị đã mài mò tự học
soạn tuồng khi anh Tám Vân cộng tác với các bạn và trong năm ba năm sau, đó chị
Nguyệt đã có thể đường hoàng dựng lên cái tên soạn giả thật sự như bao nhiêu
người soạn giả đang hành nghề và sống được với nghề.
Những vở
tuồng đã soạnVăn chương của soạn giả Nhị Kiều nhiều nữ tính,
nhẹ nhàng, ngay trong những đoạn gay cấn nhứt, cần có những lời nói cay độc hoặc
hung hăng nhứt để đẩy kịch tính lên cao trào thì lời văn của Nhị Kiều vẫn nhẹ
nhàng, nói như một lời trách móc. Bù lại những đoạn tả tình của vai nữ đối với
người yêu thì đúng là giọng nói, cách nói của một cô gái đang yêu, đang khao
khát tình yêu.
Chuyện tuồng phần lớn được xây dụng một mạch có đầu có
đuôi như thể loại kể chuyện, như tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Tuồng
của Nhị Kiều quá nhiều bài ca, gần như nói năm ba phút lại là ca cổ
nhạc.
Người ghiền cổ nhạc chắc là thích lắm nhưng cao trào của từng vở
tuồng bị phân tán vì những bài ca đó. Khi ca thì nghệ sĩ phải tuân thủ theo
giọng điệu và nhịp nhàng của bài ca. Lời đối thoại được diễn tả thong dong hơn,
dễ bộc lộ được nội tâm của nhân vật nhiều hơn.
Sân khấu cải lương hiện
nay không còn bao nhiêu đoàn hoạt động, các soạn giả sống được đều nhờ vào vidéo
cải lương. Muốn kịch bản được dàn dựng bên vidéo thì phải chịu chi phối bởi
nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chính là thị hiếu công chúng và nguyên nhân nữa
là nếu vở nặng về chính trị quá thì không ăn khách…
Có lẽ anh Tám Vân
thích ca, thích khai thác giọng ca của những danh ca sân khấu nên anh chị mới
sáng tác như vậy.
Tôi còn nhớ, ngoài những vở tuồng soạn giả Nhị Kiều hợp
soạn với Nguyễn Phương như vừa kể thì trong thời gian từ 1963 đến năm 1972, Nhị
Kiều đứng tên hợp soạn với các soạn giả sau đây:
Với thi sĩ Anh Tuyến,
tuồng Hương Lúa Tình Quê, Trăng Rụng Bến Từ Châu, Kim Hồ Điệp, Lỗi Tình Cố Nhân.
- Với soạn giả Hà Triều Hoa Phượng tuồng Khói Sóng Tiêu Tương. - Với soạn giả
Thanh Cao, tuồng Những đứa con lai. - Với soạn giả Nguyễn Đạt, tuồng Mùa Sen
Trắng Nở, Mạnh Lệ Quân, Thạch Phá Thiên, Đường về Vạn Kiếp. - Với nhóm Bông Lan
(soạn giả Hoàng Lan) tuồng Bao Công Xử Án Trần Thế Mỹ, Sở Vân, Đường Nào Lên
Thiên Thai. - Với soạn giả Thế Châu: tuồng Qua cầu đắng cay, Tâm sự cha tôi,
Thanh Xà Bạch Xà, Anh Bảy Chà, Mùa Thu Lá Bay, Cánh Chim Bạt Gió.
- Nhị
Kiều cũng phóng tác theo tiểu thuyết của Ngọc Linh thành tuồng Nắng sớm mưa
chiều, và phóng tác tiểu thuyết của Trang Thề Hy thành tuồng Vầng Trăng Bên Kia
Sông.
- Sau năm 1975, soạn giả Nhị Kiều có tuồng thu vidéo: Hoa cẩm
chướng, Huyền thoại một chuyện tình, Giọt mưa thu, Lỡ chuyến đò thương, Vết
thương kỷ niệm, Vị đắng lá sầu đâu, Trăng nước Lạc Dương Thành, Người Khách
Thương Hồ, Nữa đêm chợt tỉnh, Lòng người bạc đen… (Còn rất nhiều tuồng nữa mà
tôi nhớ không hết)
“Không viết là đói ”Hơn bốn
mươi năm theo chồng lang thang theo nhiều đoàn hát, nữ soạn giả Nhị Kiều hợp
soạn với nhiều soạn giả nổi danh của những thập niên 60, 70, chị cũng phóng tác
theo các tiểu thuyết của các nhà văn nhà báo, và khi phong trào thu vidéo cải
lương phát triển rộn rịp thì chị cũng có mặt trong hàng ngũ của những soạn giả
được đặt hàng nhiều nhất, nữ soạn giả Nhị Kiều được kể là một soạn giả viết
nhiều nhất, viết nhanh nhất và cũng là một soạn giả già nhất còn minh mẩn, còn
nhớ trước nhớ sau và sáng tạo ra chuyện tuồng được.
Soạn giả Nhị Kiều
lúc về già. Hình của Soạn giả Nguyễn Phương. Có lần phóng viên báo
Sân Khấu phỏng vấn chị: “Bà nghĩ sao khi người ta cho rằng hiện nay các soạn giả
chỉ chú trọng khai thác đề tài tình yêu, xa rời thực tế và hiện tình đất
nước”.
Nữ soạn giả Nhị Kiều đã trả lời như sau: “Sân khấu cải lương hiện
nay không còn bao nhiêu đoàn hoạt động, các soạn giả sống được đều nhờ vào vidéo
cải lương. Muốn kịch bản được dàn dựng bên vidéo thì phải chịu chi phối bởi
nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chính là thị hiếu công chúng và nguyên nhân nữa
là nếu vở nặng về chính trị quá thì không ăn khách…”
Từ năm 1995 đến nay,
nữ soạn giả Nhị Kiều và nghệ sĩ Tám Vân về sống cùng các con ở xã Bình Nhâm,
quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. Một khu vườn yên tịnh bao quanh ngôi nhà nhỏ,
cạnh ngôi nhà được cất thêm một chái nhà tranh. Đây là nơi đôi vợ chồng nghệ sĩ
Tám Vân - Nhị Kiều sống an hưởng tuổi già.
Trong chái nhà tranh nhỏ đó,
từng chồng sách báo choáng chật cả căn nhà, đó là tài sản, là kho tàng của nữ
soạn giả Nhị Kiều. Hằng ngày, chị vẫn quầng thảo với đống sách báo đó để kiếm đề
tài viết theo đơn đặt hàng, vì theo chị: “không viết là đói” . Chị nói: “Tôi sẽ
viết cho đến lúc tàn hơi.”
Khi nghĩ tới chị Tám Vân, nữ soạn giả Nhị
Kiều, đã trên 86 tuổi mà vẫn phải cặm cụi đêm ngày nặng óc nặng chữ để kiếm cơm,
tôi thật sự thương mến hai anh chị và nghĩ là mỗi người có một phần số nên tôi
thường giúp đỡ cho các bạn nghệ sĩ trong điều kiện có thể của tôi.
Soạn giả Nguyễn Phương
Ý kiến bạn đọc