gửi bởi tancogiaoduyen » Thứ 5 Tháng 8 19, 2010 3:33 pm
[align=center]Danh ca Minh Trang, định mệnh
và, những vòng nguyệt quế [/align]
Du Tử Lê
Khi những dàn đèn đã ở độ cao thích hợp nhất; khi ánh sáng đã được “cân đo” bằng máy; một lần nữa, trước khi hô khẽ “action,” người trẻ tuổi cất tiếng hỏi, lần chót, nhân vật trung tâm của những thước phim, chuyện “make-up.” Một lần nữa, người phụ nữ ngồi trên chiếc đôn mầu huyết dụ, dứt khoát:
“Không cần đâu. Bởi vì chẳng có cái đẹp nào, hơn được cái đẹp tự nhiên...”
Người trẻ tuổi đó, là Hân Nguyễn, “chủ nhân” của nhiều thước phim tư liệu quý giá về cuộc đời khá nhiều văn nghệ sĩ.
Người phụ nữ, trung tâm hay, linh hồn của bộ phim kia, là nữ danh ca Minh Trang.
Tên thật Nguyễn Thị Ngọc Trâm, nữ ca sĩ Minh Trang là cháu ngoại của Công Chúa Mỹ Lương (tục gọi Bà Chúa Nhất,) em ruột với Vua Thành Thái. Ngày 18 Tháng Tám tới đây, bà bước vào tuổi 90 (mà,) sự minh mẫn, sáng suốt của bà, khiến cho những người sắp bước vào tuổi 70 như tôi, phải mơ ước.
Nhưng điều đáng nói hơn, theo tôi, là định mệnh hay phần số, đã rất ư hào phóng, khi chọn bà, làm người nhận, cùng lúc, hai vòng nguyệt quế nghệ thuật, mang tính tiên phong, lịch sử. Ðó là:
- Minh Trang, giọng nữ, mở đường, thành danh, của dòng tân nhạc Việt, qua đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, 1948.
- Minh Trang, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ông (cũng là) một trong những nhạc sĩ tài hoa rất mực, đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt, thời phôi thai. Những ca khúc bất tử của ông, cũng được định mệnh (gần như,) gắn liền hai tên tuổi Minh Trang-Dương Thiệu Tước. Thành một.
Chặng đường nghệ thuật trên nửa thế kỷ, đã lùi xa. Nhưng những thành tựu xây dựng trên những gian nan, dò dẫm, gập ghềnh, hôm nay, người ta vẫn có thể kể, một cách dễ dàng, những ngọc-khúc vượt, thoát trên lãng quên, của Dương Thiệu Tước. Như, Ngọc Lan; Bóng Chiều Xưa; Tiếng Xưa; Ðêm Tàn Bến Ngự; Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh;) Ơn nghĩa sinh thành; Thuyền mơ; Bến xuân xanh v.v... (1)
Bên cạnh đó, một câu hỏi được đặt ra, cho nữ ca sĩ Minh Trang là: Với thân thế thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc như vậy, cách nào, người cháu ngoại của Bà Chúa Nhất, có thể “vượt tường lửa” thành kiến, để trở thành ca sĩ, ngay giai đoạn tân nhạc Việt Nam vừa mới dậy thì?
Từ căn phòng trên tầng hai, khu chung cư dành cho những người lớn tuổi, đường Ross, thành phố Santa Ana, ở miền Nam California, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước cho biết, tới giờ, bà cũng không biết âm nhạc đã chọn bà hay, bà đã chọn âm nhạc, như định mệnh đầu tiên của đời mình. Chỉ nhớ, ở những năm trung học, tại các trường Ðồng Khánh, rồi Quốc Học, Huế, bà đã cất tiếng hát, như một tặng phẩm trời, đất ban cho, trong những buổi sinh hoạt, lễ lạc của trường...
Ở thập niên 1930, những ca khúc mà nữ sinh Nguyễn Thị Ngọc Trâm làm ngây ngất thầy, cô, bạn học, dĩ nhiên là những bản nhạc Pháp - Thời điểm đó, chưa một ca khúc nào của dòng nhạc sau này, chúng ta gọi là “Nhạc tiền chiến” đến được với đám đông.
Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, người con gái của tổng đốc Bình Ðịnh, rồi Thanh Hóa, Nguyễn Hy (trước khi trở thành Thượng thư Bộ Hình,) kết hôn với giáo sư Ưng Quả - Nổi tiếng đất Thần kinh. Bà có với ông, hai người con. Người thứ nhất, Bửu Minh. Người thứ hai, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang. (2)
Năm 1948, bà đem hai con vào Saigòn, ứng thí và, trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên Pháp ngữ của đài phát thanh Pháp Á.
Bà kể, công việc của bà là dịch những bản tin tiếng Pháp, sang tiếng Việt rồi, tự mình trình bày bản tin đó, trên làn sóng. Trong lúc dịch tin, thỉnh thoảng bà “nghêu ngao” một vài ca khúc Việt Nam, đang được ưa chuộng khi ấy, như “Tiếng Xưa” và, “Ðêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước; “Giọt Mưa Thu” và “Con Thuyền Không Bến” của Ðặng Thế Phong... (3)
“Không ngờ sự nghêu ngao, hát vớ vẩn của tôi, được ông Hoàng Cao Tăng, Chủ sự phòng Văn Nghệ chú ý. Một hôm, ông ấy hỏi tôi, sao không thử hát cho đài? Tôi nói, tôi chỉ hát chơi thôi. Có biết gì nhiều đâu mà hát! Ông bảo, thì cứ thử. Một bài thôi cũng được. Nghe lời ông Tăng, tôi hát...”
Bài đầu tiên nữ danh ca Minh Trang chọn, gửi tới thính giả đài Pháp Á, là ca khúc “Giọt Mưa Thu” của Ðặng Thế Phong. (4)
Như con ngài, tới giờ thoát thai, hóa bướm, tiếng hát và, tên tuổi Minh Trang, một sớm, một chiều thành hiện tượng: Cơn bão lớn thổi ngược chiều đất nước.
Lập tức, dư luận hình thành thế đứng “chân vạc,” cân bằng ba miền: Minh Ðỗ (miền Bắc Minh Diệu (miền Trung;) và, Minh Trang (miền Nam.)
“Tam Minh” này, nghiễm nhiên trở thành “Tam công nương” của dòng tân nhạc Việt.
Cũng vì định mệnh đã nhậm lẹ, chọn người con gái cháu Bà Chúa Nhất, để trao vòng nguyệt quế thứ nhất kia, lại càng khiến nhiều người cất tiếng: “Minh Trang là ai?”
Ngay những “hoàng tử” của nền tân nhạc Việt Nam thời đó, (tập trung nhiều nhất ở đất Hà Thành,) như Ðoàn Chuẩn, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Thiện Tơ... cũng xao xác hỏi nhau: “Ai là Minh Trang?”
Câu hỏi liên quan tới một tiếng hát, một người nữ, đã mang tính lây, lan mạnh mẽ của nhiều khát khao nhận diện cháy bỏng. Nó truyền nhiễm tới Thủ Hiến Bắc Việt, Nguyễn Hữu Trí. (5) Nó buộc ông Thủ Hiến phải dùng công văn chính thức, mời nữ ca sĩ Minh Trang, ra Hà Nội, trình diễn cho Hội Chợ Ðấu Xảo tổ chức mỗi năm một lần, tại Hà Nội. Một sinh hoạt mà, tầm cỡ của nó, vượt khỏi lằn ranh Bắc phần. Thành hội hoa đăng, tỏa sáng khắp Ðông Dương.
Tại Hội Chợ này, một lần nữa, “Công nương tân nhạc phương Nam,” lại cất tiếng:
“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc ai than hờ!
(...)
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng lắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời chân buông mau
Dương thế bao la sầu...”
Tôi không biết, có phải tiếng hát, nhan sắc, ca từ... (hay tất cả những nhân tố này) đã khiến nhiều chúng anh hùng đất Thăng Long choáng váng? Những hảo hán với võ công âm nhạc thượng thừa, đã được ấn chứng, quên mình, bề gì, cũng là các trưởng môn chánh phái. Họ bỗng, hồn nhiên. Vụng dại? Họ bỗng, thanh niên. Mới lớn...? “Ồn ào” ra mắt “công nương tân nhạc phương Nam”.
Tôi không hiểu, có phải, vì biết công chúa tự tỉnh dậy trong cánh rừng tân nhạc, không do một hoàng tử nào lay động, nên nhiều “hoàng tử” Hà Thành, đã “hiển lộng võ công,” sáng tác những ca khúc mới? Quà tặng công nương? Hy vọng, được nàng “chấm đậu”?
Tôi cũng không biết, ca khúc “Tà áo văn quân” của Phạm Duy Nhượng, với những ca từ như:
“Ta gửi về người ôi mấy cung đàn Tư Mã xưa
Yêu đôi mắt huyền. Xinh như dáng thuyền
Ai nhẹ lay màn the thấp thoáng
Nàng nhẹ đôi gót hài. Dừng bên mái ngoài
Văng vẳng tiếng ai cười. Như mộng đời xa xôi...”
Ðược ông sáng tác thời gian nào? Có liên hệ gần, xa gì, tới sự xuất hiện của “nàng ‘Minh’ miền Nam” hay không?
Nhưng, hiển nhiên, bằng võ công im lặng. Từ xa. Thỉnh thoảng mới kín đáo gửi đi dăm ba nụ cười ngụ ý (như một thứ chưởng lực cực kỳ... âm nhu,) cuối cùng, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được “công nương phương Nam” chấm đậu.
Ðúng sáu mươi năm sau, nơi quê người, ở tuổi chín mươi, bà kể:
“Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn lăng xăng. Líu lo. Rối rít... Ông ấy (nhạc sĩ Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu, mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Vì, trước khi gặp, tôi đã có dịp hát nhạc của ông ấy rồi mà. Tôi cũng mong có cơ hội được gặp người nổi tiếng như ông ấy chứ...”
Hạnh ngộ giữa đôi trai tài, gái sắc hay, vòng nguyệt quế thứ hai, đã được định mệnh trao tay, từ đó.
Bà nói, dù ưng lắm. Ưng lắm đấy, nhưng:
“Mình là phụ nữ, nhất là phụ nữ thời đó, mình vẫn phải giữ gìn. Mình không thể là người tỏ tình trước được...”
Người nữ danh ca thời đầu, của dòng tân nhạc Việt Nam nhấn mạnh.
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Theo web-site “Nhạc tình Tuyển tập” thì, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, sinh ngày 15 Tháng Năm năm 1915 tại làng Vân Ðình, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Ðông. Ông là cháu nội của ông Nghè Dương Khuê. Trong giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt, ông là người đưa ra sáng kiến viết nhạc kiểu “lời Tây theo điệu ta.” Một thời gian sau, ông mới chuyển qua viết “Nhạc Việt, lời Việt.” Những nhạc phẩm kể trên, của Dương Thiệu Tước, không liệt kê theo thứ tự thời gian sáng tác của tác giả.
(2) Minh-Trang là tên được ghép lại từ hai người con này, của bà. Sự việc ấy, vô tình đưa tới ghi nhận: Tên của cả 3 nữ danh ca đầu tiên trong dòng tân nhạc Việt, tiền bán thế kỷ thứ 20, đều bắt đầu bằng chữ “Minh.” Và, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang, chính là nữ ca sĩ Quỳnh Giao, sau này. Cô hiện là giáo sư âm nhạc tại quận hạt Orange County, Nam California.
(3) Ca khúc “Tiếng xưa” được tác giả sáng tác năm 1940, “Ðêm tàn Bến Ngự,” năm 1946. “Giọt mưa thu” được họ Ðặng sáng tác năm 1939; người viết lời là Bùi Công Kỳ. Ngoài hai ca khúc vừa kể, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong còn có bài “Ðêm thu,” với những câu mở đầu như “vườn khuya trăng chiếu / hoa đứng im như mắc buồn / lòng ta xao xuyến / lắng nghe lời hoa / cánh hoa vương buồn trong gió / áng hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay...” Cũng được lưu truyền tới ngày hôm nay. Theo tài liệu của trang mạng Ðặc Trưng, thì, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong sinh năm 1918, tại Nam Ðịnh. Ông mất sớm, khi mới 24 tuổi, vì bệnh lao. Sáng tác ông để lại cho đời, rất ít. Nhưng bài nào cũng được nhiều thế hệ yêu thích.
(4) Ðể cụ thể lòng trân quý tiếng hát Minh Trang, đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, đã trả tiền “casher” cho bà, ngay từ bài hát thứ nhất; không kể tiền lương phóng viên hàng tháng.
(5) Ðược biết, thời đó, người Pháp chia Việt Nam thành 3 phần. Trừ miền Nam họ cho hưởng quy chế “tự trị;” hai miền còn lại là Bắc và Trung, phải chịu quy chế “bảo hộ.” Cùng thời với Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí, ở miền Bắc, Thủ Hiến Trung phần là ông Phan Văn Giáo.